Kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (09/7/1912 – 09/7/2022)
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ sinh ngày 09/7/1912, trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống khoa bảng ở xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), là hậu duệ đời thứ 17 của Đại thi hào, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi. 15 tuổi ông đã học ở Trường Bưởi và hăng hái tham gia các hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1928, đồng chí bị thực dân Pháp đuổi học vì tham gia hoạt động cách mạng. Cuối năm 1928, đồng chí được tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên giới thiệu về hoạt động vô sản hóa ở mỏ than Vàng Danh. Năm 1929, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được kết nạp vào tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng. Năm 1930, đồng chí được cử làm Bí thư đặc khu Hòn Gai – Uông Bí. Ngày 15/02/1931, trên đường đi công tác Cẩm Phả – Hồng Gai, đồng chí bị thực dân Pháp bắt, đưa về giam ở Nhà tù Hoả Lò rồi bị kết án tù khổ sai và đày đi Côn Đảo.
Năm 1936, do áp lực của các cuộc đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân ta và Mặt trận nhân dân Pháp, đồng chí Nguyễn Văn Cừ và một số tù chính trị Côn Đảo được trả tự do. Đồng chí về Hà Nội liên lạc với Đảng, lập ra Uỷ ban sáng kiến có vai trò như Xứ ủy lâm thời Bắc Kỳ. Tại Hội nghị Trung ương mở rộng tháng 9/1937, đồng chí được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương. Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (3/1938), đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Tháng 7/1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm “Tự chỉ trích” để đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng, chấn chỉnh những tư tưởng lệch lạc, sai trái, thực hiện đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng.
Tháng 09/1939, Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã chỉ đạo đưa Đảng rút vào hoạt động bí mật và tích cực chuẩn bị cho việc chuyển hướng chiến lược cách mạng. Tháng 11/1939, trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 6 tại Bà Điểm (Gia Định), quyết định việc thay đổi chiến lược cách mạng và thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương. Giữa lúc phong trào cách mạng của dân tộc đang bước vào thời kỳ mới thì ngày 18/01/1940, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt. Ngày 28/8/1941, đồng chí bị quân thù xử bắn tại trường bắn Ngã Ba Giồng, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, thành phố Sài Gòn.
Hai mươi chín tuổi đời, hơn mười ba năm tham gia cách mạng, bảy năm bị giam cầm trong nhà tù đế quốc, hơn hai năm làm Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã có những cống hiến to lớn đối với Đảng và dân tộc ta. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ là một chiến sĩ cộng sản ưu tú, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam, người có tầm nhìn chiến lược tạo ra bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam. Ông là một tấm gương cao đẹp về đạo đức cách mạng. Và hơn thế nữa, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ còn là nhà lý luận xuất sắc của Đảng, là người có khả năng lý luận sâu sắc và uyên bác. Dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, các vấn đề lý luận và thực tiễn được giải quyết một cách sáng tạo, nhuần nhuyễn, phù hợp với quy luật vận động khách quan.
Sáng kiến thành lập Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương đã cho thấy đồng chí là người nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm chỉ đạo của Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Từ sự phân tích khoa học, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và Đảng ta quyết định không áp dụng mô hình Mặt trận bình dân (kiểu Pháp), cũng không rập khuôn mô hình Mặt trận dân tộc phản đế (của Trung Quốc) mà thành lập Mặt trận dân chủ thống nhất. Chỉ có như vậy mới vừa đoàn kết được giai cấp công nhân, nông dân, vừa thu hút được trí thức và các lực lượng theo xu hướng cải cách dân chủ khác.
Để làm rõ và thống nhất trong toàn Đảng về quan điểm nêu trên, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm “Các quyền tự do dân chủ với nhân dân Đông Dương”. Trong tác phẩm này, đồng chí đã đưa ra và giải thích những khái niệm và phạm trù mang tính lý luận như: “Thế nào gọi là tự do dân chủ”, “Tự do dân chủ với dân tộc”, “Tự do dân chủ với giai cấp tư sản”, “Tự do dân chủ với giai cấp vô sản”… Từ việc trả lời những câu hỏi đó, đồng chí kết luận: “Xứ Đông Dương hàng thế kỷ ở dưới chế độ phong kiến, rồi kể đến chế độ thuộc địa áp bức. Chánh sách thuộc địa câu kết với tàn tích phong kiến để thống trị xứ Đông Dương, nên chỉ dân xứ này chưa được hưởng cái mùi tự do dân chủ của hiện đại… Vậy nhân dân Đông Dương muốn có hưởng các quyền tự do ấy, lẽ tất nhiên phải trải qua tranh đấu”. Đồng chí cũng chỉ ra hình thức đấu tranh: “Căn cứ theo những tình hình cụ thể đó, chúng ta có thể dùng phương pháp đấu tranh có tính chất hòa bình – là chính sách lập mặt trận dân chủ thống nhứt Đông Dương để thực hiện những yêu cầu ấy”. Tác phẩm “Các quyền tự do dân chủ với nhân dân Đông Dương” đã luận giải được những vấn đề lý luận cơ bản, trên cơ sở đó Đảng ta đưa ra những quyết sách chiến lược, sách lược trong phong trào cách mạng dân chủ…
Năm 1939, trước nguy cơ chủ nghĩa phát xít và Chiến tranh Thế giới thứ hai đang đến gần, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương lăm le trở mặt đàn áp phong trào cách mạng, những phần tử tờrốtkít giả danh cách mạng cũng ra sức chống phá Đảng. Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã tiến hành một cuộc đấu tranh sâu rộng trên mặt trận lý luận. Bên cạnh việc vạch rõ chân tướng của bọn tờrốtkít với giọng điệu cách mạng đầu lưỡi của chúng, đồng chí đã chỉ ra nguyên tắc liên hiệp giữa Đảng Cộng sản với các đảng phái khác “Sự liên hệ phải có nguyên tắc, chứ không phải liên hiệp với cả bọn phản động, bọn khiêu khích tơrốtkit, tay chân phát xít”; và đối với bọn này: “Không thể có thỏa hiệp nào, nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị”.
Trên phương diện đấu tranh củng cố nội bộ, tháng 6/1939, với bút danh Trí Cường, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết và cho in cuốn “Tự chỉ trích”. Đây là một đóng góp quan trọng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ vào công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Lần đầu tiên trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, một đồng chí lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng đã viết: “Những người cộng sản có bổn phận nói sự thật với quần chúng, dẫn đường cho quần chúng chớ không phải theo đuôi hay phỉnh họ”. Đồng chí nhấn mạnh, dù có sai lầm, có thất bại thì “phải có can đảm mở to mắt ra nhìn sự thật”. Phê phán những khuynh hướng thiên tả, hoặc thiên hữu của một số cán bộ, đảng viên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ yêu cầu Đảng phải “công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những lỗi lầm của mình mà tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng mà là làm cho Đảng được thống nhất mạnh mẽ”.
Tác phẩm “Tự chỉ trích” thể hiện tính minh triết trong tư duy chính trị của một lãnh tụ trẻ tuổi có chiều sâu trong tư duy, phán ánh sự sáng suốt giàu kinh nghiệm, tài năng lỗi lạc, dấu ấn đặc biệt của một người cộng sản dù mới chỉ được học tập lý luận chủ yếu trong lao tù đế quốc, nhưng bằng những hoạt động thực tiễn của mình đã khái quát được những vấn đề lý luận cách mạng hết sức sâu sắc, mang tính thời đại và còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Đây cũng là sự đóng góp vô cùng to lớn của Đảng ta trong việc làm giàu hơn kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin từ sự đúc kết thực tế của phong trào cách mạng Việt Nam.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng, cho lý tưởng cao đẹp của Đảng và Nhân dân ta. Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là một tấm gương mẫu mực về phẩm chất cao quý của người cách mạng. Khi được hỏi vì sao Trung ương bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư khi đồng chí mới chỉ vừa 26 tuổi, ít tuổi hơn nhiều so với các đồng chí khác. Đồng chí Lê Duẩn trả lời: Bởi đồng chí Nguyễn Văn Cừ là một trí tuệ lỗi lạc của Đảng, rất sắc sảo, nhạy bén về chính trị, lại có khả năng đoàn kết, thuyết phục anh em, là một người cộng sản có phẩm chất đạo đức rất trong sáng, được mọi người kính phục.
Tuy tuổi đời và sự nghiệp ngắn ngủi nhưng Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã để lại cho Đảng và dân tộc ta một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng; về lòng tin mãnh liệt ở lý tưởng cách mạng cao đẹp; tình thương yêu, quý mến giai cấp công nhân và nhân dân lao động; sống giản dị, chan hòa với nhân dân và vì nhân dân. Thành kính và tri ân công lao, đóng góp của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần tiếp tục học tập, vận dụng tinh thần, tư tưởng tự phê bình và phê bình nêu trong tác phẩm “Tự chỉ trích” để góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ. Đó là:
“Chúng ta phải biết nhìn nhận những khuyết điểm về chủ quan mà chính chúng ta gây ra, chúng ta phải hoàn toàn chịu trách nhiệm”.
“…Không đặt cá nhân mình lên trên Đảng, đem ý kiến riêng – dù cho đúng – đối chọi với Đảng, vin vào một vài khuyết điềm mà mạt sát Đảng, phá hoại ảnh hưởng của Đảng, gieo mối hoài nghi, lộn xộn trong quần chúng, gây mầm phái chia rẽ trong hàng ngũ Đảng”.
“Phải cần làm cho các đảng viên giác ngộ, rõ ràng và đầy đủ trách nhiệm của mình, biết xoay phương hướng trong những hoàn cảnh khó khăn, nghiêm trọng, biết tự chỉ trích đúng và kịp thời những khuyết điểm, sai lầm…”.
“Thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động”.
BAN BIÊN TẬP
* Theo Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 110 năm ngày sinh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ của Ban Tuyên giáo Trung ương.