Giữa tháng 6.2024, từ quê về Việt Trì tham dự một chương trình của Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh Phú Thọ, nhà văn Đỗ Xuân Thu ghé tệ xá của tôi để tặng tập truyện mới do Nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành có tiêu đề là động từ mạnh: Vượt sông.
Lòng thầm cảm ơn ông bạn nhà văn Đinh Dậu; nhìn quyển sách xinh xắn bởi có thêm sự chăm bẵm của người làm sách mát tay Xuân Hương, khiến tôi lật mở ký ức nhớ về thâm tình với nhà văn họ Đỗ, từ khi ông còn là Chủ tịch UBND xã Chí Đám, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.

Còn nhớ, sau tập thơ đầu tay Hương bưởi mang đậm dấu ấn nơi xuất xứ để anh chủ tịch xã chuyển hẳn sang nghiệp văn chương, khi tập thơ thứ hai Trung du ra lò, cánh nhà báo yêu thơ như chúng tôi đã đã “nhìn thấy” một mạch nguồn cảm xúc dồi dào ở cây bút mới.
Từ những sáng tác đầu tay ấy, đến nay cũng đã gần ba chục năm, lão thi sĩ “quê gốc” Đan Phượng, “quê ngọn” Đoan Hùng đã trở thành nhà văn, có gia tài chữ nghĩa không hề khiêm tốn chút nào, gồm 35 đầu sách cả văn và thơ, trong đó hơn ba chục cuốn do các nhà xuất bản trung ương ấn hành. Tôi liếc nhìn con số thống kê trang gáy bìa sách mà phục sức làm việc của tác giả: “Đã xuất bản: 35 cuốn: 9 tiểu thuyết, 10 tập truyện ngắn, 12 tập thơ, 4 tập các thể loại khác. Đã tái bản: 7 tiểu thuyết; 2 tập truyện ngắn, tản văn”. Đó là chưa kể bút ký, truyện ngắn, tản văn, tùy bút, tiểu phẩm, sử làng và…thơ lẻ, lão Chõe in tứ tung trên các báo, tạp chí khắp trong Nam, ngoài Bắc.
Có chuyện này dù chẳng liên quan đến văn chương nhưng tôi nhớ lâu, nên muốn nhắc lại ở đây: Trên dưới ba chục năm trước, hai khái niệm vi tính và ngoại ngữ còn khá xa lạ, thậm chí còn là thứ xa xỉ với rất nhiều người. Cơ quan nào mua được cái máy vi tính về là phải sắm thêm điều hòa nhiệt độ, lắp cửa kính để bảo quản và sử dụng cho an toàn. Chiếc máy tính lúc nào cũng phủ vải hoa trong căn phòng tiện nghi hơn cả phòng thủ trưởng; lại có đến mấy lần cửa khóa, then cài. Lúc ấy, Xuân Thu làm chủ tịch xã Chí Đám, người ta đã đồn đại về một ông “xã trưởng” ở Phủ Đoan từng mở lớp dạy vi tính, dạy tiếng Anh cho con trẻ làng quê – tiếng tăm cứ nổi như cồn, tựa một số ông chủ tịch xã bây giờ biết lái xe hơi!
Rời làng Phượng Hùng, Đỗ Xuân Thu lên huyện làm Phó ban Tuyên giáo, rồi Trưởng phòng Văn hóa. Nhiều người lại bất ngờ thấy lão ta ôm đàn ghi-ta hát như lên đồng, sáng tác một mạch mấy bài hát kiểu “huyện ca”, “xã ca” làm “nhạc mục” cho anh em tuyên truyền mỗi khi huyện nhà có việc. Hiện giờ, đó đây ở Đoan Hùng, các đội văn nghệ vẫn dàn dựng tiết mục, đài truyền thanh huyện vẫn thường phát ca khúc của “nhạc sĩ” bất đắc dĩ này.
Xuân Thu quả là người đa tài đáng quý!

Lại rời huyện như căn số xê dịch, Xuân Thu chuyển hẳn sang nghiệp văn chương, từ lính trơn đến đương kim Phó chủ tịch thường trực Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật tỉnh Phú Thọ, Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ. Sức viết của cây bút họ Đỗ càng thăng hoa, giọng thơ càng lắm nỗi niềm ám ảnh. Đọc anh, từ “Khúc đồng dao” (2008 – Giải B, không có giái A – của Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2009, giải thưởng Hùng Vương – giải thưởng cao nhất về văn học nghệ thuật của tỉnh Phú Thọ) đến “Bờ tre cuốc gọi” (2012), thấy lắm nỗi niềm, nhiều nhớ nhung, tiếc nuối.
Thằng cháu áo thợ nhà tôi ở nhà in về nhà cứ ao ước mình làm được những câu thơ, bài thơ như của chú Xuân Thu để tặng bạn gái. Chả biết cậu ta đọc “Bờ tre cuốc gọi” bao lần mà nhớ vanh vách “thơ tình” của bậc cha chú như các bài: “Tiếng gọi anh đầu đời”, “Đoản khúc một chiều mưa”, “Bói hoa”, “Đền em”, “Ru chay”, “Mùa giáng sinh buồn”, “Người đến sau”, “Nhan sắc ơi!”, “Cái giấc đêm qua”… Khi nổi hứng, hắn đọc cho tôi nghe một đoạn rất tâm trạng, chẳng biết lấy từ bài thơ nào, ở đâu:
“… Từ buổi gặp em tôi lạc giữa cơn mê
Hồn vía bay đi chỉ còn lênh phênh xác
Cõng một chữ Yêu lê bước tìm nhan sắc
Thăm thẳm đường đời xa lắc một miền Em…”
Nghe nói Xuân Thu rất yêu hoa nhã my của miền cao nguyên đất đỏ ba-zan, chả thế mà đã có lúc anh lấy tên loài hoa này định danh cho trang weblogs trải lòng trên mạng của mình:
“… Xòe bàn tay nâng bông nhã my
Úp mặt vào hoa tôi rưng rưng chực khóc
Lặn lội kiếm tìm suốt một đời khó nhọc
Gặp hoa rồi mà lòng vẫn chưa tin…”
“Bờ tre cuốc gọi”– tên bài thơ được lấy làm tên tập thơ được giải thưởng VHNT- có cái tứ rất hay, nên từ “cảm” đến “nghĩ” cứ như một lẽ tự nhiên mà đầy triết lý, nhiều khắc khoải:
“Chẳng cành cao, cũng chẳng bay
Bờ tre cuốc gọi tàn ngày, trắng đêm
Gọi cho sông cạn đá mềm
Gọi cho sắc sắc qua miền không không
Gọi cho nên vợ nên chồng
Gọi cho con bế, con bồng à ơi…
“Cuốc cuốc” khản giọng, tàn hơi
Người ơi! Nghe thấy một lời thì thưa?
Giọng thơ thật da diết. Điệp từ “gọi”, gọi “khản giọng tàn hơi”, rồi “nghe thấy một lời thì thưa” thấy thương ai đó quá chừng. Chả thế mà ở bìa 3 tập thơ ấy, Xuân Thu giữ hồn người đọc bằng hai câu đề từ rất gợi: “Cuốc kêu rạc cả hoàng hôn/ Tôi lần trong cõi cô đơn gọi người”.
Dẫu vậy, cũng phải nói thêm điều này: Khúc đồng dao là tập thơ “lộc phát toàn tính”. Bờ tre cuốc gọi có cả những bài thơ thể tự do. Nhưng theo tôi, lục bát vẫn là thế mạnh, là đặc sản mà tác giả có thể dành cho người đọc. Bởi nhiều khi, đọc chục bài lục bát còn có cái để nhớ hơn cả chín tập văn xuôi.
Có thơ hay để người “trong ngành” khen nhau, phục nhau đã quý; nhưng có thơ hay để những người lao động bình thường thích và thuộc thì càng quý hơn. Ai đó cứ bảo thơ mình hay mà chẳng có nổi đôi câu để người đọc nhớ tới thì thật là khó hiểu!
Với tập truyện Vượt sông lần này, tuy sách vừa ra lò, nhưng vẫn là những tích lũy của vài năm qua, đặc biệt là những những truyện anh viết trong đại dịch Covid-19. Một số trong đó tôi đã từng đọc, từng nghe và vẫn muốn đọc, muốn nghe…
Chúc mừng nhà văn họ Đỗ, cảm ơn lão Chõe thân thiết ở làng Cổ Cò… Chúc anh ngày càng thăng hoa câu chữ để tiếp tục có những tác phẩm hay hơn nữa.
Nguồn: Vanvn,vn