Ngày 30 tháng 4 năm 1975 – một dấu ấn khó phai trong lòng dân tộc. Nhân sự kiện có ý nghĩa lịch sử: cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, miền Nam giải phóng, đất nước được thống nhất, nhà thơ Tố Hữu đã hòa cùng không khí sôi sục và tin mừng thắng trận đó đã viết nên bài thơ “Toàn thắng về ta”. Bài thơ được viết bằng thể thơ tự do, nhịp điệu câu thơ dồn dập, giọng thơ hùng hồn, thể hiện khí thế của người Việt Nam ta trước tin toàn thắng.
HÌNH TƯỢNG ANH GIẢI PHÓNG QUÂN
Hình tượng Anh – anh giải phóng quân trong bài thơ được tác giả viết bằng giọng điệu ngợi ca, sự trân trọng, biết ơn. Anh giải phóng quân vẫn là “con người đẹp nhất”, “chàng trai chân đất” như Tố Hữu đã từng viết trong tác phẩm của mình, bấy giờ lại được tô điểm thêm bằng những chi tiết đậm chất lính, tuy thô mộc giản dị nhưng đẹp vô cùng:
“Vẫn là đôi dép cao su, đánh giặc suốt ba mươi năm, lội khắp sông sâu rừng thẳm”.
Diện mạo anh giải phóng quân bình thường như thế (“Giản dị như chàng trai làng Gióng”), nhưng tâm hồn anh, sức mạnh của anh lại rất phi thường:
“Vũ khí, chính là Anh, lòng yêu thương mênh mông/ Vũ khí, chính là Anh, lửa căm hờn nóng bỏng”.
Phẩm chất của người giải phóng quân trong thơ Tố Hữu chính là niềm tự hào về một đất nước sáng chói truyền thống anh hùng (“dòng sữa tự hào”); là trí tuệ hơn người (“ánh sao trí tuệ”); khí phách hiên ngang được thể hiện qua phép so sánh độc đáo “Khí phách Anh là Trường Sơn”; tâm hồn thuần hậu, trong sáng của anh cũng được so sánh với “muôn trùng sóng bể”. Đây chính là ngọn nguồn của sức mạnh vô biên, giúp anh đuổi thù, bảo vệ non sông gấm vóc.
KHÍ THẾ CHIẾN TRẬN
Nhà thơ đã tái hiện lại khí thế chiến trận và chiến thắng. Dường như nhà thơ cũng đang trực tiếp tham gia vào cuộc chiến, ghi lại lửa nóng chiến trường, dựng lại bức tranh toàn cảnh của cuộc chiến đấu và niềm vui chiến thắng. Bài thơ ra đời vào ngày 1/5/1975, sau ngày giải phóng miền Nam chỉ một ngày. Vì vậy những xúc cảm trong thơ vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi, niềm tự hào vẫn còn dâng cao trong lòng thi nhân.
Hòa cùng dòng người ra mặt trận, người giải phóng quân mạnh mẽ đứng lên chống lại gông cùm, gan dạ trước mưa bom bão đạn:
“Anh đánh như sét nổ, trời rung
Anh chuyển như lũ giông, bão cuốn”
Vẫn là nghệ thuật so sánh quen thuộc, song nhà thơ đã miêu tả hành động “đánh” và “chuyển” (xoay chuyển tình thế) của người chiến sĩ như hiện tượng tự nhiên (“sét nổ, trời rung”, “lũ giông, bão cuốn”). Nhà thơ nhận ra sự gan dạ, hành động xông pha, quả cảm của người chiến sĩ vì khát vọng chiến thắng quân thù, thống nhất đất nước.
Và rồi những tin vui thắng trận liên tục được nhắc đến trong những dòng thơ tiếp theo bằng nghệ thuật liệt kê:
“Chặt Buôn Mê Thuật, rụng cả
Tây Nguyên
Quét Huế – Thừa Thiên, đổ nhào
Đà Nẵng
Và Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên
Và Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt,
Nha Trang, lũ ngụy cuống cuồng,
rũ rượi một màu tang cờ trắng”.
Nhà thơ ngầm nhắc đến những trận đánh, từ đó khẳng định niềm vui chiến thắng từ khắp nơi rộn rã vang lên, từ Tây Nguyên xa xôi đến duyên hải nắng gió. Khắp nơi khí thế sục sôi. Nhà thơ cũng diễn tả sự thảm bại của quân thù bằng hình ảnh “cuống cuồng”, “rũ rượi một màu tang cờ trắng” của quân Mĩ – ngụy.
Rõ ràng, chiến thắng nối tiếp chiến thắng. Quân dân ta đang đứng trước một tương lai sáng tươi, một niềm mong ước từ lâu: miền Nam hòa bình, Tổ quốc thống nhất. Cảm hứng lãng mạn và tính sử thi như tràn ngập trong từng câu chữ bài thơ.
NIỀM VUI CHIẾN THẮNG
Tố Hữu đã diễn tả niềm vui chiến thắng của quân và dân ta. Ngay từ đầu bài thơ, niềm vui ấy đã được nhắc đến, thật xúc động:
“Ôi, nỗi mừng dâng mọi nỗi mừng
Trào vui nước mắt cứ rưng rưng
Cả Việt Nam tiến công, cả miền Nam nổi dậy
Dồn dập tim ta, trăm trận thắng bừng bừng”
Và khi sắp khép lại bài thơ, một lần nữa niềm vui ấy được dâng lên. Niềm vui chính là sắc màu chiến thắng rực rỡ trên đường tiến công “Đường tiến quân ào ào chiến thắng”, “Rộn rực xe tăng chồm tới Sài Gòn”; là khoảnh khắc tác giả cất lên tiếng gọi Bác thân thương như không kìm nén được lòng mình nữa:
“Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta
Chúng con đến, xanh ngời ánh thép
Thành phố tên Người lộng lẫy cờ hoa”
Trong câu thơ “Rực rỡ xe tăng chồm tới Sài Gòn”, tác giả đã khéo léo nhắc đến một sự kiện lịch sử mang tính chất bước ngoặt của dân tộc. Đó là sự kiện xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập sáng ngày 30/4/1975, Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam Bùi Quang Thận (1948 – 2012) cắm lá cờ chiến thắng của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trên nóc Dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975. Chiến thắng này trở thành trang sử hào hùng, chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc ta.
Tố Hữu đã ghi lại được khí thế xung trận, niềm tự hào nức lòng của quân dân ta trong ngày 30/4/1975, khẳng định được sức mạnh của con người Việt Nam trước muôn vàn khó khăn thách thức.
Bài thơ khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn vang mãi trong tâm trí bao người. Quả thật, thơ Tố Hữu có sức sống mãnh liệt vì nó song hành cùng lịch sử đáng tự hào của dân tộc Việt Nam, là những thơ “lửa cháy” (“Vẫn nóng viết những dòng thơ lửa cháy”) phản ánh hiện thực cách mạng, cổ vũ chiến sĩ trong cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc.
H.K.D