Tôi có chuyến đi rất quan trọng tới miền đất Tổ cội nguồn Phú Thọ để làm nhiệm vụ cao cả người cha của mình. Đó là đi thăm “cho biết cửa biết nhà” người yêu của thằng con trai tôi. Điều đó cũng có nghĩa là tiếp tục cuộc tìm hiểu của con tôi về cái sự lấy vợ của nó. “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”. Các cụ đã dạy rồi. Không biết nhà người ta thế nào sao lấy con gái họ, làm thông gia với họ được?
Từ Hải Dương, hai bố con tôi bắt xe lên Hà Nội. Từ Hà Nội lại bắt tiếp xe đi Việt Trì. Sau đó, thêm tua xe buýt nữa đến một xã ven sông Hồng là tới. Rích rắc phết. Thằng con tôi bảo thuê tắc-xi đi cho tiện. Vợ tôi không nghe. Bà ấy bảo phải dành tiền để còn lo đám cưới sau này. Tôi nghiêng về quyết định ấy. Với lại, xe tàu giờ cũng tiện, có như ngày trước đâu. Con tôi, nó muốn thuê tắc-xi chắc chủ yếu chỉ để giải quyết khâu oai. Oai gì cơ chứ? Nhà tôi làm nông, chân chỉ hạt bột, tùng tiệm tiết kiệm nuôi cả ba đứa con vào học đại học là cố lắm rồi. Ngay cả nó đây, ra trường rồi mà vẫn chưa xin được việc làm, còn cả đống tiền đang chờ phải chi ra đấy. Thế mà, giờ thuê cả một chuyến xe con, mất hàng tấn thóc thì xót ruột lắm.
Chuyến xe buýt khá đông. Cha con tôi đi từ bến “gốc” nên có chỗ ngồi khá đẹp. Việt Trì đây rồi! Thành phố thay đổi đẹp quá! Chẳng như ngày xưa, những năm tám mươi của thế kỷ trước. Nhà không số, phố không tên. Bây giờ phố xá dọc ngang như ô bàn cờ. Đường rộng thênh thang, sạch sẽ. Nhà tầng, siêu thị mọc lên hiện đại. Người xe tấp nập tưng bừng. Công viên, hồ nước đẹp như mơ. Tôi thật sự ngỡ ngàng. Chốc chốc, xe buýt lại dừng đón trả khách. Tranh thủ, tôi hướng tầm mắt ra ngoài ngắm phố xá.
“Chị về đâu đấy?”. Tiếng phụ xe hỏi người khách vừa lên cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. “Tôi về chợ Ma”, chị ta trả lời. Anh phụ xe xé vé thu tiền. Tôi giật mình. Cái từ “chợ Ma” bỗng chốc bừng lên trong đầu tôi, đánh thức kỷ niệm đã ngủ yên bấy lâu nay của tôi.
Ngày đó, mùa hè năm 1979, sau khi đưa thương binh từ biên giới về tuyến sau, tôi tranh thủ tạt qua nhà thăm bố mẹ. Từ lúc nhập ngũ đến lúc đó tôi đã về nhà lần nào đâu. Huấn luyện xong, chiến tranh biên giới xảy ra, tôi cùng đơn vị hành quân luôn lên chốt. Chiến trận liên miên, chúng tôi bù đầu quần nhau với giặc. Thấy tôi về, ngoài việc mừng tôi khỏe mạnh rắn rỏi, bố mẹ tôi cứ hỏi dồn “Sao biên giới đang ác liệt thế mà con lại về?”. Tôi nói đi nói lại mấy lần về nhiệm vụ của tôi là “đưa thương binh về tuyến sau chữa trị, nhân thể con tranh thủ ghé thăm nhà”. Thế mà bố tôi vẫn cứ bán tín bán nghi. Ông lo tôi đào ngũ. Ông giục tôi nhanh chóng trở lại đơn vị chiến đấu. Cơm trưa xong, tôi bắt xe lên Hà Nội kịp chuyến tàu 4 giờ ngược Yên Bái.
Tàu kéo còi, chuyển bánh rời Hà Nội. Không khí chiến tranh khiến khách đi tàu hỏa cũng khác. Ai cũng có vẻ trầm tư, vội vã. Tàu ngược ít khách hơn tàu xuôi. Toa tàu tôi ngồi quá nửa là lính. Ba lô, súng ống lỉnh kỉnh. Đủ các đơn vị. Có người làm nhiệm vụ tương tự như tôi. Một số là lính cựu vừa từ trong Nam ra chuyển tàu lên luôn phía Bắc. Số khác là lính mới được điều động bổ sung cho tuyến trước. Cánh lính chuyện trò tếu táo, rôm rả. Tuy vậy, cũng chỉ qua cầu Đuống là tay nào tay ấy đều gà gật hết lượt theo nhịp sình sịch, lắc lư như đưa nôi của đoàn tàu. Trên xe còn có mấy bà buôn Vĩnh Tường. Hàng họ chiếm đến một phần tư toa tàu. Số này thường xuyên đi tàu nên họ không nói nhiều, chỉ chào hỏi nhau qua loa lúc mới lên. Sau đó, người thì gục đầu vào gối, người thì ngồi ôm lấy hàng của mình để ngủ. Tranh thủ ngủ. Họ là thế. Thức khuya, dậy sớm mãi rồi nên giấc ngủ rất cần cho họ.
May mắn cho tôi được ngồi cùng ghế với một cô gái. Nàng chừng khoảng hai mươi, hai mốt tuổi gì đó. Gương mặt khả ái, nước da trắng hồng. Mái tóc bồng bềnh ngang vai. Đôi mắt nàng phải nói là rất đẹp. Đúng kiểu mắt bồ câu. Tôi chào nàng và khẽ dịch vào lựa chỗ cho nàng ngồi. Lí nhí cảm ơn tôi, nàng đưa ánh mắt nhìn tôi rồi vội nhìn xuống chân có vẻ khá ngượng ngập. Nàng không phải cùng cánh các bà đi buôn. Tôi đoán thế. Thì hành lý duy nhất của nàng chỉ là một chiếc túi du lịch loại vừa kia thôi sao gọi là đi buôn được? Tôi định giúp nàng đưa cái túi lên gác. Nàng ra hiệu không cần rồi dịch nó vào gầm ghế, ngay sát chân mình. Chắc nàng nghĩ để đó an toàn hơn. Yên vị đâu đấy, nàng mở sách ra đọc. Tôi liếc vội bìa sách “Sông Đông êm đềm”. Đúng cuốn tiểu thuyết mà tôi thích.
Ra khỏi Hà Nội, tàu hú còi tăng tốc dần. Từng nhịp “sình sịch”, “sình sịch” vang lên. Mọi người ồn ào rồi tất cả lim dim đi vào giấc ngủ. Cả toa tàu chỉ còn tôi và nàng thức. Tôi hết nhìn cảnh quan bên đường lại ngắm trộm nàng. Nàng thì mải mê đọc sách. Đẹp. Phải nói là rất đẹp. Chiến trường ùng oàng tiếng súng trên kia, đoàn quân ra trận tranh thủ nghỉ ngơi thế này, trong ánh hoàng hôn vàng rực phía trời tây và nhịp đi “sình sịch” của đoàn tàu, có cô gái xinh như mộng vẫn ngồi mơ màng đọc sách bên cửa sổ toa tàu thì hỏi còn gì đẹp hơn nữa? Tiếc cho số đồng đội của tôi kia, họ chỉ mải ngủ, không được như tôi thưởng thức cảnh đẹp này. Muốn bắt chuyện với nàng quá mà tôi không biết bắt đầu thế nào.
Bỗng tôi thấy trong người nôn nao. Mắt tôi hoa lên. Bụng quặn đau dữ dội. Mặt tôi tái mét. Muốn gọi cô gái quá mà tôi không tài nào mở miệng được. Tôi lả đi đổ người dần về phía nàng. Quyển sách đang đọc trên tay nàng rơi xuống. “Anh này! Làm cái trò gì thế?”. Nghe nàng gắt nhẹ, tôi vội chới với chỉ tay vào mặt, vào bụng mình ra hiệu cho nàng. Thấy mặt tôi tái mét, trán vã mồ hôi, nàng thất sắc. “Trời ơi! Anh bị cảm rồi! Có người bị cảm các bác ơi!”. Nàng quay các phía kêu lên.
Cả toa tàu bỗng chốc nhốn nháo. Mấy chiến sĩ chạy đến bên tôi. Cả mấy bà buôn nữa cũng xúm lại. Cô gái vội xua tay nói: “Mọi người tản bớt ra cho anh ấy dễ thở. Đừng tập trung đông quá, không tốt đâu”. Nàng đỡ đầu tôi. Tôi lả đi trong tay nàng. “Anh nào kéo giúp em cái túi du lịch trong gầm ghế ra cái. Đấy, cái túi ấy đấy. Mở sẹc ra. Lấy cho em lọ dầu gió”. Nàng vừa đỡ đầu tôi vừa nói với một chiến sĩ. Sau rồi, nàng bảo một người khác ôm tôi thay nàng. Nàng lục cái túi của mình. Tôi vẫn kịp đánh mắt về phía đó. Bên trong túi toàn thuốc tây và một số dụng cụ y tế. Rồi nàng xoa dầu gió khắp người tôi, day huyệt cho tôi. Khi người tôi nóng lên, nàng lại lấy xi lanh tiêm cho tôi một mũi thuốc gì đó. Khá lâu sau, người tôi đã có vẻ dễ chịu.
Rồi, bụng tôi lại quặn lên thêm lần nữa. Tôi ôm bụng nhăn nhó đứng dậy ra hiệu muốn đi vệ sinh. Một chiến sĩ chạy đến dìu tôi. Trưa nay, tôi ăn vội ăn vàng để đi. Chắc món rau sống, gỏi cá hành tôi đây. Ngộ độc thức ăn rồi. Cả tuần nay lăn lóc trên tàu cùng thương binh, chạy đi chạy lại lo các việc, người tôi mệt sẵn, thêm món độc tố vào sao chịu nổi? Miệng nôn, trôn tháo. Tôi thải tất cả ra ngoài trong toa lét nhà tàu. Sau đó, tôi vịn ghế, bấu vai người chiến sĩ trở lại chỗ ngồi. Thật xấu hổ. Nàng lấy cốc nước nóng pha thêm gói trà gừng đưa cho tôi: “Anh uống cốc nước này nữa là ổn. Ngộ độc thức ăn thải được hết nó nhẹ người ngay ấy mà”. Tôi ngoan ngoãn nhấp từng ngụm nước ấm của nàng và thều thào nói: “Cảm ơn em nhiều lắm. Mấy… mấy ngày nay… anh mệt quá”.
Tôi ngả đầu ra thành ghế lim dim. Tàu lắc lư. Cái đầu tôi ngúc ngoắc. Lúc ngả sang phải, lúc ngoặt sang trái. Lúc lại bất ngờ lao gục về phía trước. Những lúc thế, tôi bất chợt tỉnh dậy. Rồi lại chìm đi trong mệt mỏi và buồn ngủ. Thế rồi, người tôi ngả về phía nàng lúc nào không hay. Thấy êm êm, tôi lịm đi trong lơ mơ. Tàu vẫn lắc lư “sình sịch” theo nhịp đều đều. Tôi he hé mắt nhìn. Một khoảng trắng thịt da lấp lóa trước mắt tôi. Cổ nàng. Ngực nàng. Trời ơi! Cả hương thơm con gái nữa. Nàng đã thôi đọc sách. Thì đêm tối thế này đọc sao được. Xung quanh, cả toa tàu lặng yên. Người tôi bỗng tỉnh hẳn. Tôi nằm im để tận hưởng giây phút ngọt ngào ấy. Nàng cũng cứ để nguyên tôi vậy như có ý chở che, nâng giấc cho tôi.
“Nhà tàu thông báo! Chuẩn bị vào ga thị xã Phú Thọ. Hành khách nào xuống ga này cần chú ý kiểm tra lại hành lý của mình và ra đúng cửa quy định. Trân trọng thông báo”. Chiếc loa treo ở góc toa tàu chợt vang lên. Tôi choàng tỉnh giấc. Cô gái cũng lay tôi. “Anh gì ơi! Dậy đi. Em xuống ga này rồi!”. Nghe vậy, người tôi hụt hẫng. Nàng đỡ đầu tôi, nâng tôi ngồi dậy. Tôi làm ra vẻ ngượng ngập. “Xin lỗi! Tôi… mệt quá!”. “Dạ. Không sao anh. Anh khỏe là em mừng rồi”. Vừa nói, nàng vừa vấn lại tóc, chỉnh trang lại quần áo. Nàng cúi người, thò tay vào gầm ghế kéo cái túi du lịch ra.
Tàu dừng. Đèn bật sáng. Nàng đưa tôi thêm mấy vỉ thuốc bổ nữa, dặn tôi về đơn vị uống thêm cho lại sức. Tôi ngơ ngác: “Thế em xuống ga này thật à?”. “Vâng. Chia tay anh nhé! Anh lên biên giới mạnh giỏi, bình an”. Nàng nheo mắt mỉm cười mà lòng tôi tan nát. Nào đã nói được gì với nhau đâu? Ú ớ một lúc tôi mới ấp úng: “Em về đâu? Nếu anh muốn tìm em thì hỏi thăm thế nào?”. Nàng cười tươi: “Anh cứ đến thị xã Phú Thọ hỏi về chợ Ma là tới”. Vừa nói nàng vừa xách cái túi du lịch lên rồi bịn rịn đi ra phía cửa toa tàu. Tới cửa toa, nàng quay lại, mỉm cười vẫy tay chào tôi một lần nữa.
Bóng nàng nhập nhòa trên sân ga đêm khuya. Nhìn nàng bé nhỏ xách cái túi du lịch lệch người đi mà lòng tôi se sắt. Hơi ấm thịt da nàng như vẫn còn đâu đây. Trời ơi! Mới đấy với đây mà đã phải xa nhau rồi. Tôi bần thần ngơ ngác. Ga thị xã, chợ Ma, cô gái có cái túi du lịch đựng thuốc tây. Thông tin chỉ có vậy. Thôi chết rồi! Tôi quên hỏi tên nàng! Sao mình lại ngu đần thế không biết? Đang định lao đuổi theo nàng thì đoàn tàu chuyển bánh. Tôi cứ đứng vịn cửa tàu nhìn mãi dáng em cùng nhà ga thị xã đang chìm dần vào đêm đen phía sau. Tiếng còi tàu hú dài xé rách màn đêm phía trước lao đi. Biên giới đang chờ đợi chúng tôi. Từ đó trở đi tôi tỉnh hẳn, ngồi như bất động. Giờ này em ở đâu? Đã về tới chợ Ma chưa?
Hình ảnh cô gái cứu tôi trên tàu đêm ấy cứ ám ảnh tôi mãi, suốt cả mấy năm trời trong quân ngũ. Năm 1983, tôi ra quân. Việc đầu tiên là tôi đi tìm em. Đúng theo chỉ dẫn, tôi tới chợ Ma. Cái chợ thật kỳ lạ. Họp giữa cánh đồng. Toàn họp về chiều tối cho đến đêm. Bán buôn đủ thứ. Mỗi quán, mỗi người đi chợ đều có một cái đèn. Đèn dầu chứ có phải đèn điện đâu. Vậy mà vẫn đông vui, rì rầm mãi tới tận khuya. Hỏi thăm, mô tả mãi, ai cũng lắc đầu. Thì bố ai mà biết được người ấy là ai theo cái kiểu hỏi thăm của tôi. Mãi rồi cũng có người bảo cái cô ấy buôn thuốc tây ở chợ này đã lấy chồng từ mấy năm nay rồi. Nhà chồng cô ấy cách đây hơn chục cây số cơ? Mãi tận trên xã Văn Lung thì phải?
Tôi lần theo chỉ dẫn tiếp tục cuộc kiếm tìm. Đến nơi, không phải người tôi cần gặp. Ngao ngán, tôi tay trắng trở về Hải Dương. Rồi tôi lấy vợ, sinh con và tảo tần với cuộc sống mưu sinh như bao người khác. Chuyện cô gái trên tàu và cái chợ Ma bí ẩn tạm quên đi. Nay tự nhiên có người nhắc đến khiến lòng tôi khuấy động. Người tôi nao nao. Dứt khoát, chuyến đi này, xong việc chính, tôi sẽ tìm lại nàng một lần nữa. Chí ít thì cũng xem cuộc sống của nàng thế nào, rồi thì cảm ơn nàng thêm lấy một câu nữa cho phải đạ
Chốc chốc, điện thoại con trai tôi lại réo lên. Hằng – người yêu của con trai tôi gọi. Cháu hỏi bố con tôi đi đến đâu rồi? Xem ra nhà người ta cũng sốt ruột lắm. Đã đành là thế rồi. Dâu đầu, rể trưởng mà lị.
Rời xe buýt, chúng tôi thuê tắc-xi đi tiếp. Còn đoạn cuối này thuê xe con cũng không sao. Thế cũng tiện. Mà cũng phải “thể hiện” với nhà người ta tí chứ. Úi xùi quá, họ cười cho. Trên xe, tôi tranh thủ hỏi lái xe về chợ Ma. Anh ta cho biết chợ Ma vẫn còn. Vẫn họp ở giữa cánh đồng, bám theo đường như ngày xưa. Cũng chẳng có hàng quán, nhà cửa cố định nào cả. Cứ chiều tối, người và hàng các nơi kéo về thế là thành chợ. Có điều, hàng hóa giờ nhiều hơn. Con đường thì đã được mở rộng và rải nhựa. Người ta kéo đường điện ra đấy nên đêm về sáng sủa hơn. Vì thế, chợ đông vui hơn ngày trước.
Nhà người yêu con trai tôi ở chân một quả đồi sum suê cây trái. Không khí thật yên bình. Mẹ con Hằng ra tận ngõ đón bố con tôi. Bố Hằng chống tó đứng đợi ở cửa. Họ vồn vã chào hỏi, bắt chặt tay tôi. Tôi thoáng sững người khi nhìn mẹ Hằng. Dáng vẻ quen lắm. Hơn năm mươi tuổi nhưng bà ấy vẫn giữ được nét đẹp của thời con gái. Đặc biệt đôi mắt thì… Thôi, đúng rồi! Cô gái trên tàu năm xưa! Hình như bà ấy cũng thoáng chút ngỡ ngàng?
Yên vị nước nôi đâu đấy, tôi lựa lời tìm hiểu gia cảnh họ. Ông thông gia tương lai của tôi là thương binh. Đã chiến đấu ở biên giới phía Bắc cùng thời với tôi. Hai chúng tôi cởi mở hòa đồng với nhau luôn. Chuyện trò như pháo nổ. Ôn lại một thời khói lửa. Nhắc nhớ trận đánh nọ, chiến trường kia. Tôi khéo léo kể lại những chuyến đưa thương binh theo tàu hỏa về tuyến sau, đặc biệt nhấn mạnh chuyến tôi bị cảm, được một người con gái có cái túi du lịch thuốc tây cứu chữa trong đêm. Rồi tôi đã đi tìm người ấy ở chợ Ma như thế nào… Vừa kể, tôi vừa đánh mắt về phía mẹ của Hằng thăm dò.
“Ôi! Thế ra ông là anh bộ đội đi tàu đêm ấy à? Chính em có cái túi thuốc tây ấy đây!”. Bà mẹ Hằng reo lên. Tôi tròn mắt. “Thảo nào. Ngay từ lúc vào đây tôi cứ ngờ ngợ. Thì ra là bà. Thế mà bao nhiêu năm tôi đi tìm bà để cảm ơn bà một câu mà không gặp”. Bà ấy cười cười: “Ơn huệ gì. Ông cứ hay cả nghĩ. Có gì đâu cơ chứ”.
Quên cả ông chồng của bà ngồi đấy, tôi đứng dậy chạy tới cầm hai tay bà mẹ Hằng lắc lắc. “Em vẫn như ngày xưa”. Bà mẹ Hằng cũng vồn vã cười tươi. Con trai tôi và cháu Hằng vây quanh cũng nói cười rối rít. Tôi vẫn cứ nắm tay mẹ Hằng và miệng thì huyên thuyên đủ chuyện. Rồi như chợt tỉnh, tôi nhớ ngay ra vị trí hiện tại của mình vội luống cuống rụt tay về. “Xin lỗi ông, tôi vui quá! Gặp lại ân nhân cứu mình mà”. Tôi nói với ông thông gia tương lai. “Không có gì đâu ông ạ. Quả đất xoay tròn. Thế là vui rồi”. Ông ta cười hơ hơ rõ to. Cái mỏm chân cụt của ông ngúc nga ngúc ngoắc trên ghế.
Qua câu chuyện, tôi biết cô gái cứu tôi đêm ấy là một sinh viên y khoa vừa mới ra trường. Nàng không xin được việc làm ở đâu cả. Theo xu thế chung “bung ra” ngày đó, phát huy nghề đã học, nàng đi buôn thuốc tây. Thảo nào, đêm đó nàng thành thạo thao tác sơ cứu tôi đến thế. Cả cái túi du lịch toàn thuốc tây nữa. Dạo ấy, hàng này thuộc diện gần như là cấm và bị liệt vào hàng lậu. Thế nên, nàng cứ dấm dúi cái túi như vậy. Đến lúc cấp cứu tôi, nước sôi lửa bỏng, nàng quên bẵng điều này. Mở quầy thuốc ở chợ Ma được hơn năm thì nàng theo chồng. Chồng nàng là thương binh. Anh ra quân trước tôi. Vợ chồng họ được hai người con. Hằng là út. Con trai tôi và Hằng học cùng trường ở Hà Nội, cách nhau hai khóa. Chúng yêu nhau từ ở đó. Ra trường hai đứa đều chưa xin được vào biên chế nhà nước và đang cùng làm ngoài cho các công ty tư nhân. Trên Hằng còn một anh trai nữa. Anh này chưa vợ và cũng đang đi làm như Hằng.
“Quả đất xoay tròn – Tôi nhắc lại lời của bố cháu Hằng – Thật phúc đức cho tôi quá. Được gặp lại ân nhân xưa, lại được lo việc cho con. Đúng là song hỷ lâm môn. Giờ các cháu làm bạn với nhau, xin ông bà cho phép vợ chồng tôi được làm thông gia với gia đình nhà ta để cùng xây dựng hạnh phúc trăm năm cho các cháu”. Ông bố Hằng hể hả: “Lính cùng thời rồi. Ông không cần nói nhiều. Cốt chúng nó yêu nhau thì khó khăn mấy vợ chồng tôi cũng cùng ông bà dưới đó lo cho chúng. Phải không bà?”. Quay sang bà vợ của mình, ông nhấn mạnh câu cuối. Bà mẹ Hằng nhìn con gái cười tươi: “Chả thế lại không à?”. Rồi bà quay về phía tôi: “Tất cả vì tương lai con em chúng ta ông ạ”.
Vậy là, sau bao nhiêu năm tìm kiếm cô gái trên tàu – người ở chợ Ma đến giờ tôi đã toại nguyện. Song hỷ lâm môn, người tôi vui lâng lâng. Tiếng cười nói hoan hỉ tràn ngập khắp căn nhà.
Truyện ngắn của Đỗ Xuân Thu