Ngày xửa ngày xưa… Ở một làng nọ, có đôi vợ chồng sinh được hai cậu con trai. Vừa mới kịp nuôi nấng người anh lớn lên, rồi cưới cho một cô vợ, thì bố mẹ lần lượt qua đời, trong khi cậu em vẫn còn thơ dại, hằng ngày phải đi chăn trâu cho nhà mình và trông cả bò, ngựa, dê… cho những nhà khác gộp chung đàn. Cậu em tên là Tồng Phay Nù Jang – Tôngx Mfleiz Nux Jangs. Xin gọi tắt là Tồng Phay.
Ngày ngày Tồng Phay vẫn thả trâu trên một triền núi có những mom đồi lúp xúp xanh mướt cỏ non.
Một ngày, lũ trâu, bò, ngựa, dê đang chăm chú gặm cỏ ngon lành, Tồng Phay đang chơi một mình, thì đột nhiên nhìn thấy một con bướm hoa to lớn khác thường, hoa ngũ sắc cầu kỳ khác thường vật vờ rơi từ không trung xuống trước mặt.
Thấy lạ, Tồng Phay cầm tay nhặt lên ngắm nghía. Không còn cựa quậy, Bướm Hoa đã chết. Vì ham nghịch ngợm, nên Tồng Phay lấy lõi lanh – màng(1) ghép thành cây khèn, đào hố đất bịt mo nang làm trống, rồi chẻ cây trúc làm quẻ âm dương, chẻ cây lau làm quan tài.
Đám tang Bướm Hoa kéo dài ba ngày. Một mình Tồng Phay tự làm thầy Mủ, tự làm thầy Trống, thầy Khèn, chí Dề, chí Xáy(2), và cũng là quan khách đến phúng viếng, đồng thời với khiêng vác quan tài, đào huyệt, chôn mồ mả… Bướm Hoa đã có mồ yên mả đẹp.
Một ngày nọ, bỗng dưng có ba chàng trai khôi ngô tuấn tú nom có vẻ xa lạ, lại có vẻ gần gũi đến. Họ đi tha thẩn trong làng có ý dò la.
– Bà ơi, bà có nhìn thấy một cô gái xinh đẹp đi qua, hay là đang nghỉ ngơi, chơi bời nhà nào đó không?
– Tôi suốt ngày bấn bíu với tấm thổ cẩm đang dệt, làm sao mà để mắt tới ai!
Họ tới một nhà khác.
– Ông ơi, ông có thấy một cô gái xinh đẹp đi qua đây không?
– Lão mải trông lũ gà không cho chúng bới thóc đang phơi, làm sao nhìn thấy.
– Chị ơi, chị có nom thấy một cô gái xinh đẹp đi qua không?
– Tôi không thấy. Các anh không thấy tôi đang túi bụi công việc đồng áng, nhà cửa, vườn tược đây à?
– Chào bà thím trẻ. Bà thím vừa đi đâu về đấy ạ?
– Chào các anh. Tôi vừa đi thăm hàng xóm có bà già ốm về!
– Dạ thưa bà thím. Bà có trông thấy một cô gái xinh đẹp, trưng diện bộ áo váy mới đi qua không ạ?
– Đến nhà chị dâu Tồng Phay hỏi xem!
Họ đến nhà chị dâu của Tồng Phay, vì qua lời bà thím, họ biết đó là người chị dâu lắm chuyện. Nhưng chị dâu Tồng Phay nói:
– Tôi suốt ngày luôn tay luôn chân với bao thứ việc không tên. Chờ Tồng Phay chăn trâu về, các anh hỏi xem!
Chiều tối, Tồng Phay lùa trâu về chuồng.
– Tôi suốt ngày trông nom cả đàn cả lũ những trâu, bò, ngựa, dê, cừu, ngỗng, chim… chẳng thấy cô gái xinh đẹp nào cả. Với lại cả làng cả tổng này toàn các cô gái xấu xí thôi. Các anh định chọn cô nào thì nhờ chị dâu tôi dẫn đi xem mặt!
– Không không! Không phải chúng tôi đến tìm chọn vợ, mà chúng tôi đến tìm người thân đi lạc! Hay là… anh có thể thấy… một con chim Hoàng Yến, một con Bướm Hoa chẳng hạn?
Tồng Phay nghiêm trang nói:
– Tôi chỉ là một đứa trẻ chăn trâu bò. Có thấy gì, có biết gì mà nói!
Chị dâu ghé sát vào tai Tồng Phay, thầm thì to nhỏ:
– Họ đi đi lại lại đã mấy ngày rồi. Chú có thấy thì cứ nói, để họ còn về. Mà này, nếu họ có dón vào tay cái gì thì cứ việc cầm lấy, đừng làm khách!
Quả nhiên, một trong ba người dúi một vật gì đó vào tay. Ngắc ngứ một lát, Tồng Phay buông ra. Hóa là một con rồng đất, màu sắc rực rỡ làm lóa mắt. Anh vẩy đi. Con rồng đất rơi bẹt xuống trước mặt chị dâu, liền biến thành những đồng bạc mới, sáng chói long lanh. Chị dâu lén lút nhặt vội đút vào bụng áo.
– Các anh cứ nghỉ ngơi, ngày mai chú em tôi sẽ dẫn đi tìm!
Kỳ thực, Tồng Phay muốn lưu giữ mả Bướm Hoa làm kỷ vật cho riêng mình. Song vì thực thà, và chị dâu đã nói vậy, nên Tồng Phay đành lòng.
Hôm sau, Tồng Phay dẫn ba chàng trai lên núi, là bãi thả trâu thường ngày của chàng.
– Tình cờ thấy một con Bướm Hoa màu sắc sặc sỡ, to lớn khác thường rơi từ trên không trung xuống. Tôi đã làm đám tang và chôn ở đây!
Mọi ngày cái mả Bướm Hoa bé tí, chỉ to bằng ba đầu ngón tay, khum khum như con bọ ngô(3). Cớ sao hôm ấy, bỗng cái mả lại to đùng to đoành như một quả gò khiến Tồng Phay cũng phải phát hoảng.
Ba chàng trai lạ bảo Tồng Phay đứng bên cạnh cái mả, rồi một chàng đứng về phía trước, hai chàng đứng phía cuối(4). Chín ngày chín đêm liền họ đổi chỗ cho nhau cúng khấn hô hét các thần linh linh thiêng khắp các vùng đất vùng trời chín phương bảy phía. Cứ người đứng phía đầu miệng khấn, tay gieo quẻ thì hai người đứng phía chân mỗi người một cái quạt lông chim to, rộng, giơ lên là che kín cả ánh nắng mặt trời ra sức quạt. Đến ngày thứ chín, không gian bắt đầu nổi gió, dội mưa chấp giật xanh đỏ sét xé tung trời lật phang đất, bất thần cái mả nổ tung làm ngọn khói phụt lên cao vút che kín cả bầu trời, làm ngọn lửa đỏ nổ chói chang lóa cả mắt. Vài phút sau, dần dần trời yên bể lặng. Cái mả đã vỡ toang. Tồng Phay he hé mắt nhìn. Chao ôi! Một cô gái! Cô gái Người Trời sao mà đẹp rụng cả con tim, sao mà lộn cả đôi con mắt. Cô gái nằm như đang trong giấc ngủ êm đềm. Dần dần, cô gái hé môi cười. Dần dần, cô gái mở mắt ra. Các chàng trai xúm đến đỡ Nàng Tiên ngồi dậy.
Một trong số ba chàng trai có vẻ già dặn hơn, nói:
– Cô gái này là em ruột chúng tôi, ở cách đây xa lắm. Không vâng lời cha mẹ, em bỏ đi chơi, bị lạc, không tìm được lối về. Chúng tôi hết lòng cảm ơn anh đã cưu mang. Nếu không có anh, chắc chắn là em chúng tôi đã bỏ mạng!
Cả ba chàng trai dốc hết túi, bỏ hết những đồng bạc trắng đưa cho Tồng Phay.
– Bây giờ chúng tôi phải đưa em chúng tôi về. Anh cầm lấy. Đây là một chút công sức của anh!
Cô gái bây giờ mới cất tiếng, hơi thở của em thơm như hoa rừng, tiếng nói ngọt ngào như mật ong:
– Tồng Phay, nghe em! Vàng bạc của Trời là cứt gà cứt ngan của Đất. Trời sinh ra đã bảo em phải tìm anh. Đất sinh ra đã bảo anh phải chờ em. Anh phải theo em về Trời. Nếu các anh không đưa Tồng Phay đi cùng, thì em sẽ ở lại Trần Gian với người thương của em!
Xem ra không thể trái lời với cô gái, nàng Tiên, Công chúa, người anh cả đành bảo Tồng Phay chui vào nách áo. Hai người anh nọ cùng khoác tay em gái. Họ hú hét lên đồng chao đảo nghiêng ngả giây lát, rồi cùng bay vù lên không trung.
Ở nhà, chị dâu đã loan tin chuyện Người Trời đi tìm Nàng Tiên gặp Tồng Phay. Tồng Phay dẫn ba chàng trai Người Trời ra bãi thả trâu đã chín ngày không về. Và lúc này cả dân làng đều ngước lên nhìn không trung, thấy bầu trời vần vũ xanh đỏ tím vàng, thấy rõ một cặp hai người cắp chặt lấy nhau bay đi trước, ba người một cặp cắp chặt lấy nhau bay theo sau, họ cũng nhận ra người bay ở giữa đúng là một cô gái ăn mặc diêm dúa, lộng lẫy, cả hai cặp người biến dần vào bầu trời xanh cao tít tắp. Chẳng ai nói với ai, nhưng họ đều biết Tồng Phay mồ côi đã tìm được hạnh phúc của mình thật mĩ mãn.
*
Ở chơi đã lâu.
Những bài khèn thuộc dòng tang ma, dòng phong tục lễ tiết, dòng than thở buồn khổ và dòng vui chơi giải trí, cả Cha Trời và các chàng trai con Nhà Trời đã hướng dẫn tỉ mỉ cho Tồng Phay. Và chàng, vì sáng trí, nên đã thuộc làu làu.
Những bài ca dân gian, dòng phong tục, dòng cúng khấn ma lành, ma hoang, dòng dân ca than thân mồ côi và làm dâu, dòng gầu plềnh vui chơi thỏa lòng… do thông minh nên Tồng Phay đã học trôi chảy.
Tất cả những bài khèn, bài trống, những lời ca ấy nên thực hành ở đâu, lúc nào, trong tình huống nào, Tồng Phay cũng đã học thông tỏ.
Không chỉ có thế, thân chinh Cha Trời đã dẫn Tồng Phay đi thăm thú khắp nơi vùng Trời, và cho ăn nếm tất cả những món ăn là của ngon vật lạ ở trên trời. Cha Trời còn sai các con trai dẫn Tồng Phay đi đến những đám hiếu, đám hội, đám rượu(5)…, đến những cuộc vui.
Đã cảm thấy lòng dạ bồn chồn luyến nhớ quê hương tiên tổ, nhớ đàn trâu sau khi ăn no, lại rủ nhau xuống suối tắm táp, kỳ cọ cho da dẻ bóng nhoáng. Đã nhớ đàn gà con như quả pao vàng mượt chạy loăng quăng dưới chân gà mẹ đi kiếm ăn. Đã nhớ con chó săn nếu bị xích, không được đi săn thì luôn kêu ư ử nài nỉ chủ. Đã nhớ con chim giúa giua màu trắng pha đen lông đuôi dài mỗi khi chủ đi chăn trâu về là lại hót những tiếng nhẹ nhàng êm ái…
Tồng Phay cất tiếng nói với Cha Trời:
– Thưa cha, con ở trên trời đã lâu, học hành cha và các anh đã dạy đủ điều. Những món ngon món lạ con đã nếm đủ nhiều. Vùng trời đây đó con đã đi hầu khắp. Ngày mai, con xin phép hồi quê ạ!
Ngần ngừ một lát, Cha Trời nói:
– Ừ, nỗi nhớ quê hương bản quán đầy ắp trong lòng con. Cha không giữ nữa!
Sáng sớm hôm sau, Tồng Phay từ biệt mọi người để lên đường. Quà của nhà Trời cho đầy một thồ trĩu nặng trên lưng. Tồng Phay đi mãi, đi mãi, khi mặt trời đã khuất núi phía Tây, màn trời đã xâm xẩm mà vẫn chưa ra khỏi cổng. Thấy thế, các con trai nhà Trời lại phải đón Tồng Phay trở lại.
Ngày thứ hai, ngày thứ ba cũng thế.
Đêm ấy, Tồng Phay nằm không yên vì nỗi nhớ nhà, thì nghe có tiếng con chó kêu khe khẽ. Con chó đi tới. Hóa ra là một con chó ghẻ màu lông xấu xí. Nhưng chó cất tiếng người êm ái:
– Anh có biết vì sao đi cả ngày từ sáng sớm tinh mơ cho đến tối xẩm mà vẫn không ra khỏi cổng không?
– Quả thực, ta không biết. Chó nói ta nghe!
– Cái đống quà đè trĩu trên lưng anh ấy, ở trên này là ngọc ngà, châu báu, là lụa là sao nổi chim bay. Nhưng về dưới kia, chúng chỉ là cứt trâu, cứt bò mà thôi!
– Thế tôi phải làm sao cho phải, Cún con?
– Anh chỉ xin mỗi cái khừ lư (6) bám đầy bồ hóng treo trên gác bếp kia kìa! Vả lại anh có biết không? Ở trên này một ngày bằng ba mươi năm dưới kia. Chỉ có chiếc khừ lư mới giúp anh được!
– Thế khừ lư là cái gì?
– Ối giời ôi, em nói thế mà anh không hiểu à? Đó là Công chúa, là nàng Tiên yêu kiều, là Tiểu thư máu mủ của Cha Trời đấy. Cha Trời chỉ có mỗi nó là con gái thôi!
Nói xong, con Cún ghẻ lại dò dẫm về cái ổ lót rơm lúa rúm ró và nhếch nhác của nó.
Hôm sau, y lời con Cún dặn, Tồng Phay chỉ nằng nặc xin chiếc khừ lư nhưng Cha Trời kiên quyết không cho. Thế là ba chàng trai của Cha Trời mỗi người mới thêm một lời:
– Cha ạ! Chính Tồng Phay mới là người cứu Công chúa. Lúc chúng con về, Công chúa mới nằng nặc đòi cho Tồng Phay về theo, nếu không, thì nó đã ở lại trần gian rồi!
– Thế sao mãi tận bây giờ các con mới nói sự thật.
Thế là chính tay Cha Trời vươn lên tháo dây, phủi bụi rồi đưa khừ lư cho Tồng Phay trong tiếng nghẹn ngào phải từ biệt con gái yêu thương.
*
Có khừ lư đeo bên hông, bước chân đi như lướt gió, như thác nước tung bay trên những gờ đá, như ánh trăng xuyên mây loang loáng giữa bầu trời, chẳng mấy chốc Tồng Phay đã về tới hạ giới. Đó là một vùng đồi lúp xúp trông tựa như những chiếc bánh pa hấp(7) với những trảng cỏ tranh, cỏ lau, vạt ngải, và lác đác những cánh rừng thưa xen lẫn đây đó những cái ao, đầm thưa thớt thật yên bình. Thấy quang cảnh thật đẹp, lại thêm bụng đang đói cồn cào, Tồng Phay liền hạ túi nải đeo nách, khừ lư đeo hông để nghỉ.
Đang giấc ngủ ngon lành nơi trần gian thần thánh ngai ngái mùi đất thân thuộc thì có một con ong mật bay đến vật vờn trên mặt làm Tồng Phay bừng tỉnh.
– Sao ong lại đốt ta?
Nói chưa dứt lời thì xuất hiện một cô gái tươi cười bước ra từ trong khe núi.
– Chàng đi đâu mà lại nằm nghỉ giữa đồng không mông quạnh thế này. Nếu chàng không chê em nghèo hèn, rách rưới thì hãy đến nhà em xơi tạm bữa cơm trưa ạ!
– Thế nhà nàng ở đâu?
– Chàng hãy chịu khó nhắm mắt lại trong giây lát!
Tồng Phay ngoan ngoãn y lời. Giây lát sau, mở mắt ra, thì chàng không tin nổi mắt mình nữa. Vừa nãy mình nằm giữa bãi cỏ nghe gió reo, lắng tiếng ong vờn, thế mà giờ đã thấy mọc lên một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ làm choán cả tầm mắt.
Cô gái reo cười từ trong tòa lâu đài bước ra dáng tựa tiên sa.
– Em là Bướm Hoa mà chàng đã cứu mạng, cũng là chiếc khừ lư ám đầy bồ hóng trên gác bếp của nhà trời. Đây là ngôi nhà của chúng ta. Mai kia con hầu kẻ hạ sẽ khai khẩn ruộng nương, chăn dắt trâu bò, chàng không phải vất vả. Bây giờ vợ chồng mình vào ăn cơm đi!
Quá kinh ngạc với sự thay đổi cũng như hạnh phúc dâng tới bất ngờ, cái đói cái khát đã biến đi đâu mất, Tồng Phay tần ngần đứng giữa cánh cổng trang trí lộng lẫy một lát, rồi chàng cầm tay vợ, hai người dắt nhau đi thăm thú các tiện nghi, nào phòng trà, phòng khách, phòng làm việc, phòng ngủ, phòng thay đồ, phòng thể dục thể thao, phòng tắm, phòng cửi sợi, phòng thêu thùa…; nào những khu nhà ở của người hầu kẻ hạ, người làm công, khu chuồng lợn, chuồng gà, chuồng trâu, bò, ngựa, dê, chó, ngan ngỗng, chim; đến vườn đào, mận, lê, vườn bí đỏ, dưa chuột, vườn rau trồng các loại… Nhưng sao Tồng Phay vẫn cảm thấy có gì đó xốn xang trong lòng. Chàng hỏi Bướm Hoa:
– Thế anh chị của tôi đâu? Tôi phải đi tìm họ; tìm bà thím ngày ngày nhìn ra cửa thấy tôi chăn trâu về mới chịu bước vào trong nhà; thấy cụ ông ngày ngày vẫn chờ tôi về đưa cho mấy con châu chấu, mấy con bọ ngô, hay mấy con dế trâu để cụ nướng ăn…
Bướm Hoa cũng thấy mủi lòng khi chồng nhắc tới biết bao kỷ niệm tuổi thơ, nàng dắt tay chồng vào phòng trà, gọi người hầu mang trà thơm lên.
– Anh ạ! Một ngày ở trên thượng giới bằng ba mươi năm ở dưới trần gian. Anh lên Trời bằng ấy năm với em, hỏi xem liệu có ai còn sống đến ngày này. Mồ mả của họ, từ bấy, giờ đã thành đất hoang cả rồi, đến như nấm mồ cũng khó mà tìm. Thôi, anh cứ đọc sách, ôn khèn cho thời gian chóng qua đi!
Thời gian đằng đẵng trôi đi. Hai người đã có một cậu con trai tướng mạo thư sinh con nhà trác việt đầy ba tuổi. Cũng bấy nhiêu năm ấy, nghe tiếng Tồng Phay giỏi khèn, đến nỗi tiếng khèn của chàng căng thừa khả năng cải tử hoàn sinh, vì vậy, bắt đầu từ làng trên xóm dưới, nhà có người hắt hơi sổ mũi là họ tìm đến nhờ chàng dùng cây khèn thổi cho con ốm con đau, ma hoang quỷ dữ bay đi, để cho nhân thân của nó khỏe lại mà lo việc ruộng nương, việc rừng núi, việc chăn dắt vật nuôi. Qua làng trên xóm dưới, người ở xa hơn lại đến lạy lục, quỳ mọp xin chàng mở rộng lòng thương mà đi cứu giúp. Không nỡ lòng, chàng lại vác cây khèn của mình, hết ngày này đến tháng khác không kịp về thăm ngó nhà mình nữa. Người bệnh này chỉ một bài thổi nửa ngày đã tỉnh. Người bệnh nọ do ốm lâu hơn, nên phải thổi hai ngày, ba ngày mới có thể rờ tay nâng bát nước, bát cháo. Lại có người bệnh già phải mở bài khó cất kỹ trong chiếc khừ lư đem thổi bảy ngày bảy đêm mới cất tiếng ho khù khụ.
Mẹ con Bướm Hoa ở nhà chờ chồng mòn mỏi tháng này sang năm khác, rồi nhắn gọi giục giã, Tồng Phay mặc dù lòng gan nóng như có lửa đốt nhưng không thể bỏ mặc những con bệnh đang quằn quại rên la. Đang chữa bệnh cho bệnh nhân này thì đã có biết bao người nhà bệnh nhân khác cúi đầu lạy chờ.
Một ngày nọ, đang thổi khèn chữa bệnh ở rất xa, nhưng trong tim gan Tồng Phay như lửa đang cháy rừng rực. Bài khèn đang thổi dở dang, chàng đành buông cây khèn xuống chạy một mạch nín thở về, thì ôi thôi, vợ con đi đâu mất rồi; còn tòa lâu đài, bây giờ là một ngôi nhà hoang cỏ đã lùa vào tận bếp, tận buồng. Vắng hoác không một bóng người để hỏi. Chàng than khóc vật vã một hồi nước mắt tưởng chừng đã cạn, thì thấy con chó ghẻ nhà trời hồi xưa lò dò từ trong khe cửa đi ra, miệng sủa nhay nhách.
Tồng Phay vồ lấy Cún con ôm ghì vào lòng:
– Vợ con tôi đâu?
– Ách ách ách!… Gừ!…
– Sao Cún không trả lời. Ngày xưa Cún biết nói tiếng người cơ mà!
– Ách ách ách!… Gừ!…
Trong tiếng kêu, Cún nói rằng mẹ con Bướm Hoa đã đi lâu lắm rồi, chỉ còn mỗi Cún trông ngôi nhà hoang. Chẳng có gì ăn, Cún đói lắm! Nhưng thương chàng, Cún cố trèo lên mái nhà, moi giữa kẽ hai lớp ván lợp, lấy ra một tấm vải đưa cho Tồng Phay. Chàng nhận ra tấm vải do tay vợ dệt. Chàng cũng nhận ra những nét chữ rồng bay phượng múa của vợ viết trong đó, rằng: “Đúng giờ phút ấy, ngày, tháng, năm ấy, chàng hãy mở nắp thùng chàm đang ngâm, sẽ thấy vợ con lần chót!”.
Tồng Phay chạy lên mường trên tìm. Không thấy. Chạy xuống mường dưới tìm. Không thấy. Chạy đến mường của người Mang, người Súa (8). Chạy vào tận mường người Dao, người Sảng Phang. Cũng không có. Đằng Đông đằng Tây, phía Bắc phía Nam đều không thấy. Tồng Phay quay về nhà, ngồi thẫn thờ bên con chó ghẻ chờ đến ngày mở nắp thùng chàm.
Rồi ngày đó cũng đã đến. Đúng giờ khắc, Tồng Phay mở nắp thùng chàm ra, thấy trống rong cờ mở, vợ và con trai trưng diện những bộ mốt thật lộng lẫy ôm nhau giữa thinh không cùng đông đúc tùy tùng người ăn kẻ ở trang hoàng muôn sắc màu rực rỡ. Đám rước bay đi mãi cho đến vật đuôi cuối cùng mất hút. Chỉ còn lại Tồng Phay và con chó trung thành làm bạn, họ mãi ngước nhìn lên trời những ngày thanh cao vòi vọi, hay những đêm trăng sáng tỏ rạng cùng muôn vì sao nhấp nháy vui đùa. Từ đấy, tiếng khèn của Tồng Phay không còn hiệu nghiệm trong việc cải tử hoàn sinh, hay chữa bệnh cho tâm hồn thanh thoát. Ở phía xa xăm Nàng Tiên Bướm Hoa cùng con trai với đám tùy tùng lặn biến ấy người Hmông gọi là N-tù chua seng – Ntux chuôz shangz, nghĩa là phương trời cố hương, có thể là nơi ngọn nguồn tiên tổ.
M.A.L
(1) Lanh là danh từ chung tiếng La tinh chỉ các loại cây lấy vỏ có sợi. Loại lanh của người H’mông trồng làm vải mặc gọi là màng.
(2) Những người đảm đương những công việc chính trong đám tang của người H’mông.
(3) Bọ ngô cũng giống bọ sừng nhưng to hơn, có con màu đen, có con màu đen xen vàng, mùa ngô lên bắp, chúng thường rúc ở dưới đất để gặm gốc cây ngô nên trẻ em thường đào về nướng ăn, vừa thơm, béo vừa bùi. Ngày nay cây trồng thường bị bón phân vô cơ nên bọ ngô đã biến mất khỏi đời sống con người.
(4) Cái mả của người H’mông ban đầu thường đắp phía đầu thấp hơn, phía chân cao hơn. Ở phía chân, khi ghép đá, người ta dựng ba hòn tựa như cái khung cửa. Có người đặt phần chân thi hài vào quan tài theo hướng mặt trời mọc, phần đầu gác vào núi; có người đặt thi hài nằm ngang triền núi. Đó là một cách để phân biệt ngành H’mông.
(5) Một cách nói khác về đám cưới của người H’mông.
(6) Khừ lư, người H’mông quan niệm đó là một quả bầu chứa vô số những bí mật, những phép thuật thần thông. Tiếng Kinh gọi là hồ lô.
(7) Bánh pa hay còn gọi là bánh hồng mi, xay bột nặn thành những chiếc bánh tựa như những chiếc bát, úp từng lớp xuống chõ rồi hấp chín.
(8) Người Di, người Hán, tiếng H’mông.