Trước sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng lớn, con người càng phải cần đến nhau hơn, để đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ, san sẻ. Chưa kể, đứng trước sự can thiệp lạnh lùng của máy móc, công nghệ, của văn minh phi truyền thống… con người phải đối mặt với trạng thái stress, sự vô cảm, chai lỳ cảm xúc… nên dễ phát sinh những hành động khó kiểm soát. Đấy cũng là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng đạo đức suy thoái nghiêm trọng. Thực trạng này sẽ ngày thêm nghiêm trọng hơn nếu không có sự chung tay ngăn chặn của toàn xã hội.
Dù ở thời Cách mạng công nghiệp nào thì nền móng tinh thần xã hội vẫn là đạo đức! Những bài học đạo lý làm người, thương yêu con người, căm ghét cái ác, tinh thần hướng thiện của cha ông ta được kết tinh trong văn học truyền thống và hiện đại rồi tỏa sáng ở những hình tượng nghệ thuật thẩm mỹ đặc sắc. Không ngẫu nhiên trong văn hoá Việt, Chử Đồng Tử được phong là “Tứ bất tử” – bốn vị thánh không chết. Truyền thuyết này trước hết là sự minh hoạ sinh động, cụ thể, rất mực cảm động và chân thực cho chữ Hiếu. Trước khi chết, người cha dặn con cứ táng trần cho bố còn chiếc khố giữ lại để con mặc. Người con không nỡ vậy. Đây không chỉ là chữ Hiếu mà còn là phong tục tang ma ngày xưa với quan niệm “trần sao âm vậy” và “nghĩa tử là nghĩa tận”, dành cho người đi xa mãi mãi những điều kính trọng, mến thương, tưởng nhớ. Muốn cha xuống âm phủ còn có mảnh vải che thân, Đồng Tử đã không chỉ tròn chữ Hiếu mà còn tròn với phong tục, tập quán. Không chỉ làm tròn trách nhiệm người con mà tròn cả trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ một công dân! Truyện Chử Đồng Tử là sự giao thoa các tư tưởng triết học lớn của Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo. Sau này, nhờ phép thuật mà Chử Đồng Tử có binh hùng tướng mạnh nhưng vẫn không chống lại quân của vua Hùng (tức bố vợ) vì chàng muốn giữ tròn chữ Hiếu!
Chử Đồng Tử còn là bài ca về tình yêu hôn nhân tự do như là một mối tình tuyệt đẹp, chung thuỷ, bình đẳng và cực kỳ dân chủ. Đây là một truyện cổ về tình yêu hay hiếm hoi không chỉ ở nước ta mà còn so với cả thế giới. Đồng Tử là chàng trai nghèo nhất, nghèo đến mức không thể nghèo hơn thế mà được Tiên Dung là công chúa, con gái vua Hùng cành vàng lá ngọc, cao sang, quý phái, vương giả… chấp nhận lấy làm chồng. Tiên Dung đã vượt lên những quan niệm khắt khe cổ hủ để nghe theo tiếng gọi trái tim mình. Nàng vượt qua bao tín điều, quy tắc, nguyên tắc thành văn và bất thành văn của một triều đình. Nàng đích thực là một “nghịch tử”: con vua mà lấy chồng không hề tương xứng, không hề “môn đăng hộ đối”. Nàng phải vượt qua bao thành kiến và định kiến là lấy chồng “hoang” (Đồng Tử đích thực là kẻ “hoang”, tứ cố vô thân, không nghề nghiệp, không quần không áo, lại sống chui rúc ở bãi lau bờ sậy…). Không có một sức mạnh nhân văn cao cả, một tình thương lớn lao với những con người dưới đáy không thể sáng tạo ra được những chi tiết, hình tượng đầy nghịch cảnh mà tuyệt vời trong sáng như vậy. Truyện đã cách xa hàng ngàn năm, mà ở ngày hôm nay, chỉ một cô gái bình thường thôi, có gia cảnh bình thường, nghề nghiệp, nhan sắc, học vấn bình thường, liệu có ai “dũng cảm” dám lấy chồng có thân phận như Chử Đồng Tử? Thế nên, dân gian không chỉ thờ một Đồng Tử mà còn thờ cả Tiên Dung!
Những truyện cổ tích đẹp là những giấc mơ khơi nguồn, nuôi dưỡng và thúc đẩy khát vọng lớn lao của con người. Sống có nghĩa là khát vọng. Hết khát vọng là dấu hiệu sự sống dừng lại. Mà cổ tích thì là cả một thế giới vô tận những ước mơ. Hình tượng ông Bụt trở thành biểu tượng cho sức mạnh chính nghĩa, công lý giúp đỡ kẻ nghèo, người bất hạnh… Cô Tấm (truyện Tấm Cám) mỗi lần gặp tai ách khổ nạn là được Bụt hiện lên cứu giúp. Nghe thấy tiếng thở dài phiền não của anh chàng nghèo khổ phải đi kiếm cây tre trăm đốt mới cưới được vợ là Bụt hiện ra giúp (truyện Cây tre trăm đốt) v.v… Như vậy Bụt chẳng phải là một biểu trưng cho khát vọng được che chở, được giúp đỡ, được bình yên, hạnh phúc đó sao? Người Việt cũng có cách hiểu khác về tư tưởng “cứu độ” của Phật giáo. Tượng Phật Việt Nam có nghìn mắt nghìn tay. Nghìn mắt để nhìn thấy mà thấu hiểu và thấu cảm nỗi khổ trầm luân của chúng sinh, nghìn tay để cứu vớt con người! Nhân ái, bao dung, chia sẻ là thế!
Một phương diện cơ bản của thế giới truyện Nôm bình dân là giáo dục đạo lý. Truyện Thoại Khanh – Châu Tuấn là bài ca ca ngợi đức hiếu thảo của nàng dâu Thoại Khanh thay chồng nuôi mẹ, từng cắt thịt mình nướng cho mẹ chồng ăn thoát qua cơn đói. Từng tự khoét mắt mình dâng dâm thần để mẹ khỏi bị bắt đi. Phật Thích Ca thương tình cho nàng cây đàn thần, nàng dùng tiếng đàn kiếm cơm độ nhật, lấy tiếng đàn ai oán não nề nhắn gửi tới chồng Châu Tuấn… Tại sao Phật không cho vật khác mà lại là cây đàn? Nói theo ngôn ngữ hiện đại là Phật bao dung nhưng cũng rất tỉnh táo cho nàng “cần câu” chứ không cho “con cá”! So sánh với mô tip cây đàn ở truyện Thạch Sanh có thể hiểu cây đàn của Thoại Khanh là biểu tượng của nghệ thuật. Tiếng đàn hay sức mạnh của nghệ thuật đã giúp Thạch Sanh minh oan, giúp công chúa đang câm nói được, giúp quốc gia tránh nạn xâm lăng của 18 nước chư hầu. Cũng vậy tiếng đàn nghệ thuật đã cứu hai mẹ con Thoại Khanh, giúp nàng đoàn tụ với chồng. Thì ra dân gian quan niệm nghệ thuật chân chính cũng có sức mạnh cảm hóa, sức mạnh cứu rỗi, sức mạnh đổi đời như phép màu của Phật vậy!
Hoặc như vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính đã làm mê đắm, thổn thức hàng triệu trái tim bao thế hệ bởi được thu nhận những ý nghĩa nhân văn tận thiện, tận mỹ. Cốt truyện được xây cất bằng vật liệu tư tưởng về con người của văn hoá dân gian, văn hoá Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo nên đa dạng, nhiều vẻ về cấu trúc hình tượng. Tư tưởng tác phẩm khúc xạ và tích hợp từ nhiểu nguồn mỹ học nên đa nghĩa và phát ra những ánh sáng văn hoá lạ, độc đáo. Toàn bộ nội dưng tư tưởng là sự hợp lưu ánh sáng từ quan niệm lành mạnh, khoẻ khoắn, táo bạo của dân gian; quan niệm từ bi hỷ xả của đạo Phật; từ cái nền nếp khắt khe của Nho giáo… nên tác phẩm đã tạo ra những cuộc đổi ngôi nhân vật ngược đời mà vẫn hợp lý. Trong đó, nhân vật Thị Kính bị “lộn ngược” một cách triệt để nhất, đau đớn nhất. Từ kiếp gái bị đổi thành kiếp trai rồi kiếp tu hành, lại bị đổi về kiếp đàn ông và kiếp làm cha. Cuối cùng mới được đổi thành kiếp Phật. Đây vừa là quan niệm nhà Phật “Đời là bể khổ trầm luân!” nhưng cũng là quan niệm “hoá kiếp” nhân ái của tín ngưỡng tình thương người Việt. Đời người khổ quá nên dân gian “hoá kiếp” cho nhân vật để được sống sung sướng hơn. Quan niệm con người ta phải có chữ “Nhẫn” làm đầu và Ở hiền gặp lành trong văn hoá Việt đã gặp gỡ tinh thần “cứu độ” của Phật giáo để cùng đưa Thị Kính hoá thân thành Quan Âm trong vòng hào quang thánh thiện của tình người. Thị Kính rất tiêu biểu cho chữ Nhẫn mà ngày nay chúng sinh rất cần phải có!
Con người như cây xanh phải được cắm sâu rễ vào mảnh đất truyền thống để hút dinh dưỡng văn hóa và vươn cao lá cành vào bầu trời thời đại để quang hợp ánh sáng lý tưởng. Nhưng ngành giáo dục, và cả người lớn chúng ta hôm nay đang coi nhẹ vai trò giáo dục đạo lý từ mạch nguồn dân tộc. Dễ thấy nhất là trong chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn các cấp, những áng văn cổ lấp lánh triết lý về tình thương, về sự đoàn kết, về lòng vị tha như dẫn như vừa nêu ở trên thật quá ít ỏi. Thời nào cũng vậy, ngôi nhà xã hội phải dựng trên nền móng đạo đức. Nền móng yếu thì nhà sao vững chãi được… Đạo đức xã hội hôm nay đang xuống cấp nghiêm trọng, phải chăng có lý do là chưa được như vậy?
Nguồn Văn nghệ số 23/2022