Bạch liên
Sen rùng mình trút giấc mùa thiên thần
xuống mặt bàn loang ố
Người tri kỷ châm trà nhìn bạch liên bong từng lớp đời
thác về nơi hoa không sinh ra
uống cả nỗi buồn tha hương chưa kịp tới
Bung yêu
Amĭ !Amĭ !(1)
Pơlang đến thì khoe sắc
Bụng con cứ nhớ người dưng
Amĭ Ama có biết
Tây Nguyên vừa cạn lạnh
Mùa “bắt chồng”(2) bung yêu
Srí(3) đủ cặp
Vòng đồng đủ đôi
Thổ cẩm tương tư con tự dệt
Tìm mai mối đi thôi
Canh khuya chờ căng giấc
Dân làng chìm mộng say
Cửa nhà chàng giăng giăng đèn trước
Amĭ Ama(4) có biết
Rượu thương con ủ lâu ngày đến độ thơm men
Cái dạ bổi hổi gọi tên
Chàng mạnh như trâu rừng
Thật thà như nai như hoẵng
Nương rẫy nhà mình cỗi cằn
Chờ tay chàng cuốc bẫm
Đầu con bận nhớ người dưng
Cho con mang chàng về lạy tổ tiên
Mang về làm rể hiền
Trao nhau câu luật tục
Đọc bật màu “đêm thiêng”
“Tìm vợ, tìm chồng phải hỏi mẹ cha;
ăn ruộng, ăn rẫy phải hỏi tai con trâu, con bò;
làm bẫy phải hỏi thần núi; về với vợ như về với nước…”
Xin Yàng(5) ban cho con nhựa sống
Dính chân chàng ngày đêm
——————
1. Amĭ (mẹ)
2. Tục “bắt chồng”của người con gái Tây Nguyên
3. Srí là cặp nhẫn cưới được chế tác từ bạc, sáp ong, phân trâu mà thành
4. Ama (bố)
5. Yàng (Trời)
Chợ tình
Sương ngậm núi
Gió co cây
Áo chàm mờ lối
Ngựa cõng hàng xuôi mây
Hơi may đọng
Bát rượu đầy
Đỉnh non trăng lạnh
Người cạn – núi say
Mắt đi ngơ ngẩn đá
Chợ lòng ẩm men cay…
Vía đá
Đá là lanh* cho bóng
cho trơn
cho nhẵn
Đường chà lăn mềm nóng phẳng lì
Vải có linh hồn thuận theo chân cần mẫn
Thuộc tính nhau nếp óng lạ kỳ
Đá gọi lanh thức
Đá gọi vía về
Gọi Phong Thổ hưng hửng dần trên vải
Mặt trời cứ chìm
Mặt trời cứ nổi
Con gái cứ trồng lanh
se sợi
nhuộm chàm
Cứ là những sải vải bằng phiến đá trăm năm
bằng niềm tin từ đời này gối sang đời khác
Lanh bản mình ưa một người chăm sóc
mới đẹp
mới bền
chẳng bạc
Vợ mặc
Mắt chồng rạo rực
Tình chồng cây rừng tươi xanh
Váy cuốn lên thân thành suối
Vía đá ngưng tụ thành trăng
—————–
* Một phong tục của người Mông ở Sin Suối Hồ, huyện Phong Thổ, Lai Châu
Lá khô
Người đi, phố gió heo may
Một người ở lại lòng đầy lá thu
Trăng xanh, xanh lạnh Tây hồ
Yêu thương rát ruột còn vờ như không
Gặp nhau ngôn ngữ lặng câm
Người đi tôi lại ngóng trông một mình
Thu đưa cái sự vô tình
Cho hồn khắc khoải tim thành lá khô
Thời gian có đợi bao giờ
Để mà trả nợ ngày vờ làm kiêu
Người đi phố gió liêu xiêu
Lá khô nằm lại bến chiều ngẩn ngơ
Người khách đặc biệt
Hai người khách vãng lai đến tìm tôi nhờ làm sách
Tập bản thảo xộc xệch
Mép giấy trở trăn bên tác giả mù
Nụ cười thường trực hiền khô
Đôi mắt bâng quơ ra chiều tin một ngày sẽ sáng
Họ dìu nhau
rón rén
từng bậc thang lên xuống
Dựa nhau thập thõm bước đời
Cô mang trọng bệnh trong người
Có gương mặt còn vương thời xuân sắc
Cô làm chiếc gậy, bàn tay, đôi mắt
Ghi lại lời hay chảy ra từ khối óc không mù
Vẫn nụ cười hiền khô
Run run đưa tôi tập bản thảo quăn vênh
chắc tác giả viết góp lâu ngày chưa thành sách
– Chú rất yêu làng!
Tích cổ nguồn xưa ngôi đình Lâu Thượng
Chùa Bối Linh thiên địa mở trên trang
Xóm Sải, bến Vò nơi tế lễ khao quân
Hai Bà Trưng tụ binh khởi nghĩa
Thôn Hương Lan thoang thoảng khói nhang học sĩ
Thiên Cổ thiêng nằm dưới gốc táu già
“Hùng lĩnh trung chi thắng tích Nam thiên chính khí linh từ”
Vũ Thê Lang – thầy nước Nam nhớ mãi
Ánh mắt bâng quơ bỗng ngời lên như thấy
Hậu thế giở xem thiên sử đạo nghĩa dầy
Tác giả bồi hồi: – Chú sợ sau này con trẻ làng không hiểu được
Gốc cội nguồn nơi cắt rốn chôn nhau
Nào làm được gì to tát đâu
Chỉ là muốn nói điều mình biết
Người vợ ngồi bên vẫn kiên trì ghi chép
Quê Trưng Vương sáng phía hai người.
Nhớ
Từ hôm ấy đã bao ngày
Ngồi xâu chuỗi buồn hao gầy
Lạ quá! Mong ai mà khổ
Trốn vào giấc ngủ chẳng say
Mắt nhắm là nhắm để đấy
Hồn thì dong duổi theo ai
Hà thành sôi động đến vậy
Có người chỉ những thở dài
Dậy đi cho quên nỗi nhớ
Loanh quanh lạc lối vườn yêu
Ghế đá hôm nào hai đứa
Mơ mòng hạnh phúc phiêu lưu
Hôm nay có đôi thế chỗ
Họ nói với nhau những gì
Xem chừng đầu mày cuối mắt
Giống mình dạo nọ tình si…
Người bạn nhỏ của ta
Từ khi anh con trai
Biết thở dài
Biết miệt mài nhắn tin
Rồi một ngày
cô con gái chẳng quen
Lại gần gọi thẳng thừng ta bằng: – Mẹ!
Nào lạ gì đâu danh từ hàng ngày bọn trẻ
Thời nay vẫn kêu đường
Có chút se se như mưa sương
buông chùng cõi lòng ta dù biết bọn nhỏ này chỉ là bạo dạn
Ta tự dặn mìnhđơn giản, thế thôi!
Rồi một hôm
Trong mâm cơm anh con trai hết đứng lại ngồi
Ta ngó sang chiếc ghế: – Kiến đốt à?
Trúng mạch nguồn con trai khơi liên miên
Xin được đón cô gái kia về làm vợ
Cảm xúc giãn nở
Ta lo nhiều hơn vui
E sợ tình non, e sợ sớm vùi
E sợ con ta hay con người một lúc nào trở thành cay đắng
E sợ sự mặn mòi của câu tình yêu thời bốn chấm không
như trò chơi chóng vánh
E sợ vui chưa lâu đã phải học buồn
Nay ta thành mẹ của nàng
Cô gái bạo dạn hôm nào, bỗng ta thương đến lạ
Hình như ta không phải mẹ
Hình như ta muốn kết bạn vong niên,
với cô gái khiến tim con ta đảo điên, đòi cưới
Thương con ta chặc lưỡi
Mai này người bạn mới nhỏ xíu ấy,
cũng san sẻ thân thể và tuổi trẻ, cho sinh sôi nối tiếp chữ gia đình
Ta lại tự dặn mình
Chăm dưỡng nghĩa không sinh
Cho anh con trai có nụ cười tỏa nắng
Nhà thơ: Vũ Thanh Thuỷ
Nguồn: Văn.vn