***
“Chiếc tàu mà hai bác cháu mình đang ngồi vốn được cho là to nhất không chỉ ở hòn đảo này, mà là cả vùng duyên hải Đông Bắc. Thế nhưng không ai có thể phát âm đúng tên của nó. Thuyền trưởng Green, người chủ trước của chiếc tàu này nói, cái tên Alcazar được xuất phát từ tiếng Cuba. Ông ta hồi trẻ từng nhiều năm sống tại La Havana, rồi Bermuda, cuối cùng mới chuyển về đây.
Bác đã phải cho Green nốc biết bao nhiêu vại bia để ông ấy kể lại chuyện làm cách nào mà có thể lấy được chiếc tàu này. Green nói rằng, vào một ngày nọ ông ấy và hai người bạn lái thuyền ra đảo Isle de Haut để đánh cá trích. Họ quanh quẩn bên đảo được hơn một tuần thì sương mù kéo đến, ba người phải tạm thả neo vào bờ. Thế rồi, một cơn gió thổi đám sương mù đi, và một người bạn tinh mắt của Green phát hiện ra chiếc tàu này đang giăng buồm giữa biển. Green nhìn qua ống nhòm phát hiện trên boong tàu không có bất kỳ thủy thủ nào, còn vải buồm rách nát đến mức gần như không nhận ra được.
Green và hai người bạn lái thuyền lại gần chiếc tàu. Ban đầu họ đứng từ xa hét tướng lên để gọi nhưng không thấy ai trả lời. Green mới liều mình bám thành tàu leo lên boong.” – Thuyền trưởng John hơi rùng mình – “Bác chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy một chiếc tàu bị bỏ hoang trên biển, nhưng cứ nghe cái cách ông Green kể lại thì sợ thật. Ông ta đi vào khoang tàu mà cũng không tìm thấy bất kỳ người nào. Chỉ có mấy bộ quần áo vứt lung tung và mấy cái võng đã sờn. Toàn bộ cabin đều nặng mùi ẩm mốc.
Thuyền trưởng Green không thể hiểu nổi chiếc tàu này trước đó đã làm gì ở đây. Nó không phải là tàu chở hàng hay tàu săn bắt cá voi. Ngay cả những vị thương gia cũng chẳng mấy khi dùng loại tàu này, vì bên trong tàu có nhiều chỗ được lót nhung và thảm Thổ Nhĩ Kỳ. Nó giống như là một chiếc tàu của một ông nhà giàu nào đó lấy việc lái tàu làm thú vui.
Thuyền trưởng Green và hai người bạn đang đi quanh tàu thì bỗng dưng cánh cửa cabin thuyền trưởng bật mở. Ba người rùng mình nhìn nhau, rồi không ai bảo ai, chỉ có Green lấy đủ tự tin để bước vào cabin. Tất cả mọi thứ bên trong phòng được phủ bởi một lớp bụi dày hóa màu bạc dưới ánh trăng vàng. Tuy thế đồ đạc không lộn xộn như là ở dưới khoang tàu.
Green có cảm giác sờ sợ về chiếc tàu, nhưng ông cũng biết là mọi người sẽ cười nhạo mình vì bỏ lỡ một cơ hội tốt như thế này. Chỉ nhìn vào bên trong cabin là đủ biết chiếc tàu đáng giá đến mức nào, từ ván lát sàn bằng gỗ gụ, rèm cửa bằng vải ren, và một cái giá đầy những chai rượu whisky trống không. Mọi thứ trên tàu đều toát ra vẻ vương giả chỉ có tìm thấy được ở giới nhà giàu châu Âu.
Green đang trầm ngâm suy nghĩ thì một người bạn của ông ta kêu toáng lên: “Xuống đây ngay đi!” Green bèn chạy xuống tận dưới đáy tàu. Ông ta gần đến nơi thì phải hốt hoảng dừng lại, lấy tay bịt mũi vì ngửi thấy cái mùi thối không thể lầm được bởi xác chết. Người bạn của Green nhìn thấy ông ta thì mới lắp bắp:
“Chiếc t-tàu này… là tàu c-chở… nô lệ.”
“Nô lệ?!”
“Họ chết hết cả rồi!” – Vừa nói người bạn vừa phải dựa vào thành tàu để đứng vững. Điều đầu tiên đập vào mắt của Green là xác người la liệt trong khoang tàu. Những cái xác rũ xuống trong tư thế hai tay bị kéo ngược ra sau bởi dây xích trói. Cứ nhìn nước da của họ thì hẳn đây là những người thổ dân châu Phi bị bắt đi rồi đem đến nơi đây làm nô lệ.
Chính ra thì ngày xưa thuyền trưởng Green cũng từng lái tàu buôn nô lệ, rồi sau đó ông ta phải bỏ vì không chịu nổi cái nghề kinh khủng đấy. Nhưng cảnh tượng lúc đó ghê sợ đến mức ông ấy suýt nữa nôn ọe ra. Green sau đó quyết định rằng mình phải lái chiếc tàu này về đảo rồi trình báo với chính quyền.
Những bài thơ chúc Tết đáng nhớ của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong vai trò là một nhà báo, một nhà văn, nhà thơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tác...