Trong lịch sử chống ngoại xâm, dân tộc Việt Nam đã đối diện với những thách thức ghê gớm: Một nghìn năm Bắc thuộc, một nghìn năm bảo vệ độc lập chống lại các triều đại phong kiến phương Bắc, đặc biệt là ba lần chống quân Nguyên – Mông, đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới trong thế kỉ XIII; một trăm năm chống ách thống trị thực dân, chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và 21 năm chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ…
Cuộc kháng chiến chống Mỹ là thử thách lớn nhất, ác liệt nhất đối với dân tộc ta. Chúng ta đã phải đương đầu với đế quốc hùng mạnh nhất, giàu có nhất, tàn bạo, nham hiểm và hiếu chiến nhất. Việt Nam trở thành tiêu điểm quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng, tiến bộ và phản động, giữa chính nghĩa và phi nghĩa trong cuộc đấu tranh của nhân loại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhìn thấy âm mưu can thiệp đen tối của đế quốc Mỹ. Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954), chưa tan mùi thuốc súng, Người đã căn dặn “Thắng lợi này tuy lớn nhưng mới là bắt đầu, chúng ta còn phải đánh Mỹ”. Bác Hồ và Đảng ta đã xác định đường lối cách mạng trong giai đoạn mới: Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền. Nhằm mục tiêu chung là chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc; chỉ rõ mối quan hệ chiến lược giữa hai miền: Xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc để tạo sức mạnh giải phóng miền Nam. Miền Bắc có vai trò quyết định nhất, miền Nam có vai trò trực tiếp. Đó cũng là ý chí của mọi người con Việt Nam “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.
Đảng ta đã kết hợp và phát huy sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, xây dựng liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc Đông Dương, đoàn kết với các trào lưu cách mạng trên thế giới, với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, hình thành mặt trận rộng lớn của nhân loại yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ đoàn kết và ủng hộ Việt Nam chống chiến tranh. Chúng ta đánh Mỹ với truyền thống quật cường, bất khuất, quyết thắng mọi kẻ thù xâm lược. Chúng ta quyết đánh và biết đánh, anh dũng và thông minh, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và năng lực sáng tạo là bản lĩnh trí tuệ Việt Nam, là sức sống mãnh liệt của dân tộc để vượt qua mọi thử thách tưởng chừng không vượt nổi. Biết địch, biết ta, hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của địch, tập trung đánh đòn quyết định làm chuyển biến cục diện chiến tranh, kiên trì giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi cuối cùng.
Dưới ánh sáng “Đề cương cách mạng miền Nam” của đồng chí Lê Duẩn năm 1956, đặc biệt là Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng năm 1959, đồng bào miền Nam đã tự lực vượt qua thời kỳ đen tối, vùng lên khởi nghĩa từng phần, giành lại phần lớn nông thôn.
Cao trào đồng khởi vĩ đại đã đưa cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn tiến công. Năm 1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời. Năm 1961, Bộ Chính trị quyết định thành lập Trung ương cục miền Nam do đồng chí Nguyễn Văn Linh đứng đầu. Trước sự phát triển của cách mạng miền Nam, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, nhằm đối phó với cách mạng Việt Nam và thế giới. Với phương châm “Hai chân, ba mũi, ba vùng” tổng kết từ thực tiễn đã đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, trong trận chống càn tại Ấp Bắc đã chứng minh khả năng đánh thắng quân ngụy có cố vấn Mỹ giúp đỡ. Sau hàng loạt chiến thắng Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài… Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược “Chiến lược cục bộ”…
Năm 1965, Mỹ quyết định tiến hành “Chiến tranh cục bộ” với sự tham gia trên quy mô mới của Lục quân, Hải quân và Không quân ở miền Nam và phát động “Chiến tranh phá hoại miền Bắc”. Chính quyền Giôn Xơn đặt mục tiêu đập tan ý chí giải phóng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam; ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á, chặn đứng phong trào giải phóng dân tộc trên quy mô toàn cầu.
Cuộc chiến tranh tàn khốc nhất lịch sử bắt đầu. Dân tộc ta đứng trước một thách thức chưa từng có trong lịch sử. Hồ Chủ tịch và Đảng ta đã đánh giá tình hình cục diện mới một cách bình tĩnh, sáng suốt, tạo sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Năm 1966, tại “Hội nghị Diên Hồng của thời đại Hồ Chí Minh” tinh thần “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập” của Cách mạng tháng Tám; “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” của kháng chiến chống Pháp đã biến thành lời hịch “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”; “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”… vang vọng khắp núi sông!…
Trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt, hiểm nghèo đó dân tộc ta đã tỏ rõ bản lĩnh quyết đánh và biết đánh. Cả nước đánh Mĩ trong cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ. Đồng bào và chiến sỹ miền Nam “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”, trên miền Bắc quân dân ta “Nhằm thẳng quân thù mà bắn!”. Chi viện cho miền Nam “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Từ các trận đánh ở Núi Thành, Vạn Tường, Plây Me, Bầu Bàng… Giặc Mỹ đã lộ ra những điểm yếu của chúng. Trên miền Bắc ta đã bắn rơi nhiều máy bay địch, bắt sống giặc lái…
Dưới mưa bom bão đạn, sự chi viện chiến lược cho miền Nam vẫn tăng cường từng ngày qua tuyến vận tải Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh trên biển.
Về phía đế quốc Mỹ, chúng đã huy động vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam một khối lượng bom đạn, vật chất kỹ thuật chưa từng có trên một địa bàn hạn hẹp; sử dụng mọi vũ khí hiện đại và dã man nhất trừ bom nguyên tử; đưa vào miền Nam hơn một nửa triệu quân Mỹ, 7 vạn rưỡi quân chư hầu; hơn một triệu quân ngụy; một con số kỷ lục cho cuộc chiến tranh cục bộ. Chính quyền Mỹ đã thực hiện mọi chiến lược, chiến thuật về chính trị, quân sự, ngoại giao, dùng mọi thủ đoạn chiến tranh tàn bạo nhất, bao vây phong tỏa, khủng bố toàn diện, tàn phá kinh tế, triệt hạ làng xóm và thành phố, tiêu diệt con người, hủy diệt môi trường, thiên nhiên. Mỹ đã đưa các chiến lược gia, các tướng lĩnh bậc nhất đến Việt Nam để đấu trí với ta. Đế quốc Mỹ tính toán sau hai hoặc ba mùa khô, chúng sẽ đánh gãy xương sống quân chủ lực Việt Cộng, tiêu diệt Trung ương cục và Bộ Chỉ huy quân giải phóng miền Nam Việt Nam, tàn phá và phong tỏa miền Bắc, cắt đứt đường Hồ Chí Minh, ngăn chặn sự chi viện Bắc Nam, làm lung lay ý chí kháng chiến của chúng ta, áp đặt lại chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam.
Trải qua hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 – 1966 và 1966 – 1967, Mĩ không những không diệt được quân giải phóng, không bắt được cơ quan đầu não kháng chiến, ngược lại phải chịu những tổn thất nặng nề. Đến mùa khô thứ 3, Mĩ chưa kịp trở tay, cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968 nổ ra đồng loạt ở khắp các đô thị miền Nam làm rung chuyển toàn nước Mỹ… Tổng thống Giôn Xơn phải tuyên bố đơn phương ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20, chấp nhận vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” bị phá sản, Mĩ phải chuyển sang “Việt Nam hóa chiến tranh”. Xuân 1969, trong thơ chúc Tết, Bác Hồ kêu gọi: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Đầu năm 1972, chúng ta mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam. Tháng 12/1972, chúng ta giành thắng lợi quyết định trong trận “Điện Biên Phủ trên không”, đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng B52 trên bầu trời Hà Nội và Hải Phòng. Tháng 01/1973, chính quyền Nich Xơn buộc phải ký Hiệp định Pari, rút hết quân Mỹ về nước, quân chủ lực của ta vẫn ở nguyên tại chỗ, tạo nên sự thay đổi cơ bản về so sánh lực lượng giữa ta và địch.
Trận quyết chiến chiến lược mùa Xuân năm 1975 đánh dấu bước phát triển mới của chiến tranh nhân dân, nghệ thuật tổ chức và chỉ đạo những trận then chốt, đặc biệt là nghệ thuật tiến hành chiến tranh ở giai đoạn cuối. Sau khi hoàn thành chuẩn bị chiến lược về thế và lực ở cả hai miền Nam Bắc, chiến dịch giải phóng Tây Nguyên mở đầu bằng chiến thắng Buôn Mê Thuột đã tạo ra đột biến trong cục diện chiến tranh. Nhạy bén nắm bắt thời cơ và chủ động tạo ra thời cơ. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã liên tục bổ sung quyết tâm chiến lược theo nhịp độ thay đổi nhanh chóng của chiến tranh, thay đổi quyết sách từ kế hoạch giải phóng miền Nam trong vòng hai năm, sang kế hoạch thời cơ một năm, và sau chiến dịch Huế – Đà Nẵng, hạ quyết tâm cuối cùng giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975.
Với khí thế “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa”, chiến dịch Hồ Chí Minh (26/4/1975 – 30/4/1975) được tiến hành với tinh thần quyết chiến và toàn thắng. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy sau 55 ngày đêm, với sức mạnh áp đảo về quân sự và chính trị, bằng ba đòn chiến lược then chốt, hơn 1 triệu quân ngụy bị tiêu diệt và tan rã, cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, ngụy quyền sụp đổ. Những tên xâm lược cuối cùng đã rút khỏi nước ta. Thắng lợi này là kết quả của toàn dân tộc trong cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt và lâu dài của nhân dân Việt Nam với bọn Mỹ ngụy.
Một điều hiếm thấy trong lịch sử các bộ tộc người Việt cổ sinh sống trên mảnh đất này là đã có một triết lý sống, một nền văn hóa dân tộc mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất để làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, cố kết nhau trong một quốc gia thống nhất để chống thiên tai, chống giặc ngoại xâm.
Ngày toàn thắng 30/4/1975 đã đi vào lịch sử như một sự kết thúc trọn vẹn của cuộc chiến tranh mười nghìn ngày (1945 – 1975). Dân tộc Việt Nam, một dân tộc luôn khát khao hòa bình, đã phải trải qua cuộc trường chinh 30 năm đầy hy sinh, gian khổ. Với ba mốc son: Tổng khởi nghĩa tháng Tám, Điện Biên Phủ và Mùa Xuân 1975 toàn thắng. Dân tộc ta đã hoàn thành vẻ vang sự nghiệp cứu nước, đất nước ta sạch bóng quân thù, Tổ quốc ta hoàn toàn Độc lập, Thống nhất. Cụm từ “Việt Nam – Hồ Chí Minh” đi vào ngôn ngữ của các dân tộc đồng nghĩa với chân lý “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”, tượng trưng cho lương tri, phẩm giá con người. Thắng lợi của nhân dân ta cũng là thắng lợi của nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới. Điện Biên Phủ và Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là những điểm hẹn lịch sử giành cho những cuộc chiến tranh xâm lược.
N.Đ.X
Tài liệu tham khảo:
(1) Võ Nguyên Giáp – Vị tướng của Nhân dân, Nxb CTQG Sự Thật, 11/2023.
(2) Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Chân dung một huyền thoại, Nxb Đồng Nai, 2013.
(3) Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Trong cuộc trường chinh lịch sử của dân tộc, Nxb Hồng Đức, 2017.
(4) GS.TS Tạ Ngọc Tấn, Một số vấn đề về cách mạng và Đổi mới, Nxb CTQSST, 11/2020.