Nhà văn Tống Ngọc Hân vừa ra mắt bạn đọc tiểu thuyết Động rừng, dày 232 trang do Nxb Công an Nhân dân in và phát hành. Tiểu thuyết được độc giả đón nhận nhiệt tình.
Đây là tiểu thuyết lấy vùng đất trung du, miền núi phía Bắc là nơi nhà văn gửi gắm tâm tư vào trang viết để bóc trần một sự thật về sự tha hóa trong “lợi ích nhóm” của những người ăn nhờ rừng, ở nhờ rừng, sống nhờ rừng, chết nhờ rừng, gắn bó cả đời từ thế hệ này đến thế hệ khác với rừng. Ẩn đằng sau sự thật đó là lời cảnh tỉnh cho mọi người trước những kẻ cơ hội muốn lợi dụng chính xã hội mà họ đang sống để trục lợi, mưu cầu lợi ích riêng tư, thỏa tham vọng hèn hạ, bẩn thỉu cá nhân mà đang tâm chà đạp lên môi trường sống của toàn xã hội.
Nội dung tiểu thuyết bắt đầu từ thời kỳ cải cách ruộng đất
Gia đình tá điền Đinh Văn Dỡ có 5 người con (kể cả cô út sinh sau cải cách) là Đại, Đựng, Đúc, Mang, Vác. Vì có công đấu tố địa chủ nên được Đội chia cho ngôi nhà ba gian vốn là kho của gia đình địa chủ Trần Dinh. Đến khi sửa sai, sợ bị trả thù nên đêm tối cả nhà Dỡ dẫn nhau đi trốn. Sau những ngày chui lủi họ đã đến Châu Phú, cửa ngõ của Lưỡng Giang rộng lớn, nơi giáp ranh với Đại Yên. Gia đình ông Dỡ ở lại thị trấn Châu Phú. Người con lớn của ông Dỡ là Đại đi bộ đội. Khi Đại phục viên về Sở Xây dựng sau bỏ ra ngoài mở công ty, trở thành Giám đốc Công ty TNHH xây dựng X của tỉnh (tr145). Là người giàu có Đại tung tiền ra mua đất rừng, mở nhiều khu sinh thái rộng hàng trăm héc-ta. Chẳng may một trong những khu sinh thái đó là khu sinh thái Hoa Ban của ông bị cháy khiến ông tiếc đứt ruột. Người con thứ hai của ông Dỡ là Đựng. Không phải đi lính, Đựng ở nhà buôn bán các sản vật quý của rừng và trở nên giàu có, có thế lực ở Lưỡng Giang. Đựng kết thân với Lý Hữu Quán, một thanh niên ở bản Qua, một bản người Dao Châu Phú. Quán lấy Đúc em gái Đại và Đựng. Thế là anh em trong gia đình ông Dỡ mặc nhiên lợi dụng sự tham lam của người dân Lưỡng Giang bòn rút các sản vật quý của rừng, cả thực vật và động vật lẫn đất đai để vinh thân, phì gia. Họ trở nên giàu có và can dự vào các hoạt động tham nhũng, trục lợi của những kẻ cơ hội đang đục khoét xã hội ở Lưỡng Giang. Lòng căm giận khi biết chồng mình có một đứa con riêng với một người đàn bà ở Tà Hua, mảnh đất cực Bắc của Châu Phú khiến Đúc bị tâm thần (tr66). Sau khi ra viện, Đúc nổi đồng, mở phủ, lập điện thờ Mẫu thượng ngàn, lập ra một đội Cung văn do một người phụ nữ chừng bảy mươi tuổi thanh tú, đẹp đẽ làm đội trưởng (tr150).
Chính vào đêm gia đình ông Dỡ trốn ấy, cô Hạ, em gái út (con bà Tư) của địa chủ Trần Dinh vì tức giận, đã đốt ngôi nhà Đội cải cách chia cho ông Dỡ mà không biết gia đình ông Dỡ đã bỏ trốn trước đó 1 canh giờ (tr108). Nghĩ là ông Dỡ bị thiêu chết, cô Hạ sợ quá, cũng bỏ trốn khỏi làng. Người tá điền tên là Lục vì thầm yêu cô nên cũng trốn theo. Do bị rắn độc cắn nên Lục chết, để lại trong Hạ giọt máu của anh. Hạ bị kiệt sức, ngất đi và được Giàng A Lử – Chánh văn phòng Ủy ban huyện Bằng Kha người H’Mông cứu, rồi phiêu dạt lên đến Bằng Kha, cách Châu Phú một vực nước, nơi 2 bà vợ Lử sinh sống (tr148). Vượt qua mọi khổ cực, Hạ đã sinh được một con gái. Lử đặt tên là Giàng Thị Hoàn (tr120). Sáu năm sau Lử bị bọn phỉ giết. Chúng còn hãm hiếp Hạ đến chết rồi quẳng xuống sông. May thay Hạ không chết và được bố của một tên phỉ cứu sống. Hoàn mất mẹ, được một người họ xa của Giàng A Lử đem về nuôi (tr234). Nhớ con, mấy ngày sau, Hạ lại trốn ông già, lên chiếc mảng đi tìm Hoàn mà không biết rằng khúc sông dưới đó có một thác nước cao cả trăm mét. Chiếc mảng lao xuống thác vỡ tan, nhưng Hạ may mắn không chết. Một người đàn ông họ Lý người Dao ở bản Qua đã cứu cô, lấy cô. Nhưng suốt quãng đời còn lại Hạ đã không thể có con được nữa. Hạ quyết tâm đi tìm Hoàn. Người chồng họ Lý dẫn Hạ đến nhà Quán, người từng đi suốt các chợ lớn nhỏ ở Lưỡng Giang để săn lùng các sản vật quý, nhờ tìm Hoàn. Vợ ông Quán là bà Đúc có một phủ thờ Mẫu Thượng ngàn. Vốn có tài hát văn bà Hạ trốn chồng vào làm đội trưởng Cung văn tại nhà ông Quán. Rồi bà phát hiện ra bà Đúc chính là con gái ông Dỡ, kẻ mà bà tưởng đã chết cháy trong vụ bà thiêu nhà năm nào. Cô Đúc cũng nhận ra bà Hạ. Cô Đúc còn biết Hoàn, con bà Hạ, đang là bồ của Đắc, anh trai mình. Mối thâm thù ấy đẩy Đúc đến con đường phải hạ độc Hạ (tr161).
Trưởng công an huyện Châu Phú, Dũng là một người tâm huyết với công việc. Lái xe cho ông tên là Ngát, cháu nội của địa chủ Dinh (tr141) cũng tận tụy với ông. Rừng ở Hoàng Nham bị lâm tặc phá nát trắng trợn (tr75). Ông Chung, người kiểm lâm già của rừng Hoàng Nham đơn thân độc mã nhưng vẫn kiên quyết bảo vệ rừng đến mức có biệt danh là “Chung khùng” và “Người rừng” (tr99). Ông là con trai của địa chủ Trần Dinh (lúc Trần Dinh bị xử tử, Chung là cậu bé 7, 8 tuổi) và là bác của lái xe Ngát (tr92), là cháu của cô Hạ, là anh của Hoàn (tr97). Như thế Ngát phải gọi Hoàn là cô ruột. Mấy năm sau Ngát được điều về Liên đoàn Lao động tỉnh, còn ông Dũng về làm Giám đốc Công an tỉnh. Khi Đúc quyết tâm hạ độc bà Hạ bằng bát thuốc mà nói là cắt cho người ốm, bà Hạ biết không thể thoát nên xin ơn huệ được hát văn lần cuối cùng cho thỏa đam mê. Nhưng không phải ở nơi giam giữ, mà phải hát tại phủ cô Đúc và hát chính bài hát bà tự soạn. Lời bài hát chính là phần đời chìm nổi của bà cùng với ân oán chưa được tháo bỏ. Những người có mặt tại giá đồng đều ngạc nhiên. Ông Dỡ gần như phát điên. Lợi dụng lúc vỡ giá, Ngát đã lôi bà Hạ lên ô tô và lái xe chạy thoát.
Giàng Thị Hoàn vốn là công nhân Lâm trường Hoàng Nhan và là mối tình đầu của Dũng. Nhưng do những rắc rối về thân phận mà hai người không lấy được nhau. Trong một lần gặp Đại, một đại gia giàu có, thế lực và là Giám đốc Công ty xây dựng X. Được Dũng giới thiệu, Hoàn đã nghỉ công nhân về giúp việc cho Đại, rồi sa vào vòng tay Đại dù biết Đại đã có vợ. Vợ Đại là Hoàng Xuân vốn trước là người yêu của ông Chung. Để mua chuộc cấp trên, Đại đã đem Hoàn dâng cho Lẫy, cũng đã có vợ, hiện là người đứng đầu tỉnh để có thêm nhiều gói thầu xây dựng. Từ đó Đại và Lẫy cấu kết với nhau để nâng giá thầu công trình, bòn rút ngân sách nhà nước, khiến các công trình bị xuống cấp trầm trọng (tr165). Có thể nói, Đại dùng tiền bạc và Hoàn để tha hóa Lẫy và nhiều cán bộ cốt cán của Lưỡng Giang. Hoàn cũng là cầu nối dưới hai người trong vai một cổ đông của công ty X. Và rồi ông Lẫy bị công an bắt. Đương nhiên sau đấy là Đại và Hoàn cũng bị bắt. Do có lệnh của cấp trên nên ông Lẫy không bị xử tù. Nhưng Đại phải chịu mức án 10 năm, còn Hoàn nhận bản án 7 năm tù. Vì nhờ uy tín của Dũng nên quyết định đó cũng có phần nương nhẹ. Ra tù Hoàn được ông Lẫy mua cho một căn nhà 3 gian và một khu rừng ven thành phố. Hoàn cũng được ông Lẫy cho biết là ông đã biết Tuấn (con trai của Hoàn) không phải con của ông mà là con của Đại. Nhưng ông vẫn yêu và chu cấp, lo cho Tuấn như con vì Tuấn rất ngoan, học giỏi và ra trường rất có chí tiến thủ. Hoàn cũng gặp lại Dũng và được Dũng khuyên nhủ nên Hoàn đã quyết tâm sử dụng diện tích đất Lẫy mua cho để trồng rừng. Tiểu thuyết khép lại khi giai điệu bài hát Thanh xuân vang lên. Hoàn hiểu thanh xuân như một cơn mưa và cơn mưa đã qua. “Cô ngậm ngùi: Anh Dũng này! Cơn mưa của anh đã làm xanh những mầm sống bình thường. Còn tôi…”.
*
Viết Động rừng Tống Ngọc Hân đã thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật. Trong một tập hợp hàng chục nhân vật trong tiểu thuyết này mỗi nhân vật đều có một số phận riêng. Và tác giả đã đồng hành đến cùng với số phận của từng nhân vật đó. Trên con đường đi đến tận cùng của số phận nhân vật, ai cũng biết phải có năng lực và tư duy sáng tác người cầm bút mới không bị cảm hứng đẩy đi lạc lối, mới khắc chế được những cảm hứng bất chợt để cỗ xe sáng tác không bị chệch khỏi đường ray đã được lập trình. Trong Động rừng mâu thuẫn nội bộ của các nhân vật cũng được nhà văn giải quyết đến đầu, đến đũa. Các tình tiết sự việc cũng được xem xét cụ thể và xử lý thấu đáo, không khiên cưỡng. Câu văn ít mệnh đề, nhiều hình tượng tập trung vào những tình tiết cần diễn đạt, nên đã đi vào lòng độc giả. Người ta cũng không thấy trong tiểu thuyết này những câu thoại được xuống dòng có gạch đầu dòng hoặc nằm giữa hai dấu ngoặc kép như những tác phẩm khác. Cách viết đó khiến độc giả phải chăm chút theo dõi từng con chữ, không phân tâm mới hiểu được những vấn đề mà nhà văn định trình bày.
Hình tượng Động rừng được lấy làm tên cho tiểu thuyết cùng với những cánh rừng Hoàng Nham bị xẻ thịt đến tan nát như vừa qua cơn bão lớn mặc dù được Nhà nước đầu tư nhiều tiền của cùng với cả một bộ máy quản lý khổng lồ khiến cho độc giả đau xót. Nhưng đó là những đau xót trầy da, lóc thịt bề ngoài. Trong lòng họ, cái đau xót hơn gấp nhiều lần là sự tha hóa của con người. Những con người đó có người có chức, có quyền trong bộ máy công quyền, có người xuất thân từ giai cấp nông dân bần, cố ngày xưa tưởng một lòng một dạ tôn thờ lý tưởng cách mạng, có người thuộc giai cấp địa chủ vốn quen ăn trên ngồi trốc thiên hạ. Sự đau xót ấy là một sự Động rừng cao hơn cả Động rừng. Đó là Động xã hội. Nhiều nhân vật trong tiểu thuyết đã tỏ lòng ân hận. Đó là sự ân hận dù muộn màng nhưng cần thiết. Tất cả là những sự phản ảnh thực tế khách quan và là những lời cảnh tỉnh. Rất đời thường là trong tiểu thuyết Tống Ngọc Hân đã xây dựng hình tượng nhân vật Dũng, Ngát, Chung người rừng, Tuấn, phần đời còn lại của Hoàn và các nhân vật chân chính khác. Họ đang làm bằng mọi cách giữ cho xã hội này bình yên. Tất cả những điều ấy chứng tỏ tài năng và bản lĩnh của người viết.
Nhà văn Tống Ngọc Hân là một nhà văn đã thành danh trên văn đàn Việt Nam. Chúng ta có quyền đòi hỏi và hy vọng nhà văn sẽ có những bứt phá mạnh mẽ hơn nữa. Tuy nhiên văn phong và cách trình bày cốt truyện của Tống Ngọc Hân trong Động rừng có vẻ giống một tiểu thuyết trinh thám Âu Mỹ hơn là một tiểu thuyết văn học Đông phương. Sự ẩn giấu tên và tung tích nhân vật có vẻ như là một sự sắp đặt có chủ đích nhằm pha chút đánh đố người đọc. Sự tìm tòi và thể hiện cái mới trong lối xây dựng tiểu thuyết khiến độc giả theo dõi Động rừng khá vất vả và mệt mỏi.
Phải chăng đã đến lúc độc giả cần làm quen với phong cách sáng tác này của nhà văn Tống Ngọc Hân?
Vũ Quốc Khánh