Tèo! Dậy đi! Dậy đưa bà sang nhà cụ Trác mau!”. Bà Giang vừa lay thằng cháu nội vừa nói. “Chửa chín giờ tối mà đã ngủ vùi thế này rồi. Ngày đùa giãy cho lắm vào”. Bà ca cẩm. Cu Tèo vẫn ú ớ chưa muốn dậy. “Nhanh lên! Hình như cụ Trác đi rồi đấy? Dậy đưa bà sang đó! Nhanh lên!”. Vừa giục nó, bà Giang vừa cầm tay nó kéo lên.
Thằng Tèo dụi mắt, giọng ngái ngủ: “Ông Trác đi đâu mà bà gọi cháu sang đó vào giờ này?”. “Đi đâu? Đi chết chứ còn đi đâu nữa?”, bà Giang sốt ruột nói. “Ông ấy ngoẻo rồi hả bà?”. “Láo nào. Không được hỗn. Nhanh đưa bà sang tiễn ông ấy kẻo không kịp”. Cu Tèo tỉnh hẳn ngủ. Nó vội chạy tìm cái đèn pin Trung Quốc bé xíu bật lên. Hai bà cháu khép cửa lọ mọ dắt nhau đi về phía nhà cụ Trác. Ở đấy đang có tiếng ồn ào. Ánh điện sáng lên cả một góc bến sông.
Lạy trời! Đừng cho ông ấy vội đi. Ông Trác ơi! Chờ tôi một lát nhé. Có đi thì cũng nhìn mặt nhau lần cuối chứ. Lúc chập tối, nghe tiếng chim lợn kêu ngang trời tôi đã giật mình rồi. Ông ốm liệt giường cả tháng nay một thân một mình, tôi thương lắm. Ngày nào tôi cũng sang. Tối nào tôi cũng có mặt. Duy chỉ có tối nay tôi bận chút việc không sang với ông được, lẽ nào ông lại chọn lúc tôi không có mặt để đi? Sắp kỷ niệm 70 năm ngày Chiến thắng sông Lô rồi, sao ông không cố đợi ngày ấy đã? Ông là người chiến sĩ sông Lô cuối cùng còn lại đến giờ cơ mà? Ông phải ở lại để hôm đó còn hát bài Trường ca sông Lô như ngày nào chứ! Và phải kể tiếp cho bọn trẻ nó nghe về trận đánh năm xưa chứ ông! Đừng đi, ông Trác ơi!
“Mới tháng trước, truyền hình họ về quay phim, hỏi chuyện ông ấy, bà nhỉ?”. Cu Tèo vừa soi đèn dẫn đường vừa líu ríu. “Cháu thấy ông ấy mặc quân phục oách lắm. Huy chương đỏ ngực nha. Đầu tóc bạc phơ nha. Trước ống kính, ông ấy chém gió mê ly luôn”. “Cái thằng này. Ăn với chả nói – bà Giang thập thững theo sau cắt ngang lời thằng cháu – Ngôn từ chúng bay bây giờ chẳng ra làm sao cả. Như thế là thiếu kính trọng người lớn đó”. “Cháu xin lỗi – cu Tèo có vẻ ăn năn – Tại cháu quen mồm. Dưng mà, công nhận ông Trác oai phong lắm bà ạ. Đang trả lời máy quay, ông ấy lại quay sang hát. “Vui hát ca hòa vui hát ca hòa chí chiến đấu, đây tay trai Việt Bắc, Sông Lô đang xuôi mau…” làm mấy cô chú truyền hình cũng ngỡ ngàng cuốn hút theo”. Tèo hồn nhiên kể chuyện và bắt chước giọng ông Trác để hát.
Mặc cho thằng cháu líu ríu, lòng dạ bà Giang vẫn cứ ngổn ngang. Bà chỉ mong sao nhanh nhanh cho kịp gặp ông Trác trước lúc ông ấy đi. Bà mắc nợ ông ấy nhiều quá. Có mặt trong giây phút cuối cùng của ông ấy bà mới cảm thấy nhẹ bớt đi phần nào. Đừng vội đi ông Trác nhé!
Hồi tháng mười năm “bốn bảy”, cả xã bà vào chiến dịch sông Lô. Khi đó bà Giang mới mười tuổi. Ở cái tuổi ấy, bà cũng đã biết và nhớ được những sự kiện quan trọng quanh mình. Ông Trác ngày đó cũng mới tuổi mười ba, đúng bằng cái tuổi thằng Tèo nhà bà bây giờ. Ông ở làng Đám. Bà ở làng Ngọc. Hai người đâu đã biết nhau. Phần vì khác làng, phần nữa lại cùng là trẻ con.
Trác không phải người xã này. Cái năm đói kém Ất Dậu (1945), bố mẹ Trác dắt díu nhau tha phương cầu thực từ đâu đến xã Tiên Phong rồi họ gửi Trác vào nhà cụ Quản, một gia đình khá giả của làng ngày đó. Họ bảo một đôi năm sẽ quay lại đón con. Trác ở lại chăn trâu cho cụ Quản và được cụ ấy coi như con. Chính nhờ việc chăn trâu này mà Trác đã giúp đơn vị bộ đội đánh thắng quân Pháp.
Số là, hôm đó, như bao ngày thường, Trác lùa trâu đi chăn ở khu vực ki lô mét 20 giáp đất Tuyên Quang thì nghe tiếng người rên trong bụi rậm. Trác vạch cây tìm tới. Thì ra, đó là một anh bộ đội liên lạc. Anh được phái gấp từ Tuyên Quang về báo tin cho đơn vị đang phục kích ở Tiên Phong biết có một cánh quân Pháp trên năm chiếc tàu chiến đang xuôi. Chúng kéo về cứu nguy cho hai tàu hậu cần LCM tiếp viện đã bị ta đánh tơi tả ở Khoan Bộ. Cấp trên yêu cầu đơn vị ẩn náu giữ bí mật và chuẩn bị thật tốt cho trận đánh, không cho chúng cứu nhau. Anh bộ đội bảo Trác cầm giúp thư hỏa tốc về báo cho chỉ huy của xã. Trác chạy vù đi.
Nhận được tin đó, đơn vị pháo binh chủ lực và du kích cùng nhân dân các xã của huyện Đoan Hùng khẩn trương vào chiến dịch. Không khí sục sôi. Trác được xã và đơn vị bộ đội biểu dương. Cụ Quản vui lắm. Cả nhà cụ cùng làng xóm náo nức. Toàn bộ số bưởi trong vườn được hạ xuống để làm thủy lôi giả. Trác vừa chăn trâu vừa xem mọi người sơn đen quả bưởi, thả rải “thủy lôi bưởi” trên sông. Anh chạy đi chạy lại truyền tin từ tổ nọ đến nhóm kia. Ai cũng có thể sai bảo Trác được, nhất là các vị chỉ huy. Trác tự nhiên trở thành liên lạc lúc nào cũng không hay.
Làng Đám làm thủy lôi giả thì làng Ngọc làm trận địa pháo phòng không giả. Bà Giang vẫn nhớ theo bố lên gò Nhỏ cùng bộ đội chặt tre dựng làm nòng pháo, lấy cây cỏ để ngụy trang. Mấy cụm “pháo” nửa kín nửa hở ngẩng cao nòng hướng lên trời, quay về phía sông Lô trông oách lắm. Ngay sát bờ sông, bến ông Hiếu, bộ đội đặt pháo với phương châm “đặt gần bắn thẳng” quyết nhấn chìm tàu chiến địch. Bên kia sông, xã Hữu Đô gom nứa tép thành đống, chất rơm rạ lên để sẵn đấy, khi có lệnh đốt lên tạo tiếng nổ như tiếng súng, tạo khói mù trời uy hiếp quân địch. Và trận đánh ngày 24 tháng 10 năm 1947, đúng như phương án tác chiến, ta đã thắng lợi hoàn toàn. Hai tàu chiến Pháp bị nhấn chìm, hai chiếc bị thương chết máy trôi xuôi, chiếc còn lại quay đầu ngược chạy tháo thân. Âm vang dòng Lô với chiến thắng ấy còn vọng mãi đến bây giờ.
Sau trận đánh đó, Trác xin với cụ Quản theo làm liên lạc cho đơn vị pháo binh. Đông xuân năm 1954, Giang cùng một số người của xã đi dân công chiến dịch Điện Biên Phủ. Họ chuyển gạo, mở đường, giúp bộ đội kéo pháo cả tháng trời. Biết đơn vị đã từng đánh đắm tàu chiến Pháp trên sông Lô quê mình, Giang chủ động hỏi thăm. Không ngờ gặp đúng Trác. Lúc này Trác đã chững chạc trong bộ quần áo trấn thủ. Còn Giang cũng phổng phao khoe hết những nét đẹp thiếu nữ. Thì cô cũng mười bảy tuổi rồi còn gì. Biết Trác đã từng ở chăn trâu cho cụ Quản, làng Đám, sự đồng cảm tăng lên. Thế rồi, tình yêu hai người nảy nở. Họ thề non hẹn biển sẽ xây dựng gia đình sau ngày chiến thắng.
Hòa bình lập lại, làng quê phơi phới xây dựng cuộc sống mới. Bao nhiêu chàng trai đến với Giang nhưng cô đều khước từ, một lòng một dạ chờ đợi Trác. Rồi Trác thư về khuyên Giang đi lấy chồng với lý do đời lính của anh nay đây mai đó sẽ khổ cho người ở nhà. Mặc, Giang vẫn một mực đợi chờ. Mãi tới năm 1960, Trác mới trở về. Anh có phần mập ra, đẹp trai hơn. Nộp giấy tờ cho xã, người ta mới biết anh là thương binh. Cụ Quản đã mất. Thấu hiểu tình cảnh ấy, hợp tác xã xếp cho anh chân thủ kho. Kho vừa là nơi cất giữ vật tư, thóc lúa của hợp tác vừa là chỗ ở của Trác. Anh cố tình lánh mặt và tỏ ra rất nhạt nhẽo với Giang. Lúc đầu Giang ức lắm. Sau rồi bản chất sĩ diện của cô nổi lên. Người ta phản bội mình thì mình theo đuổi làm gì nữa. Giang quyết cố quên đi mối tình đầu. Khổ nỗi, họ vẫn sinh hoạt đoàn cùng nhau. Thế nên hình ảnh của Trác chẳng thể nào ra khỏi trong tâm trí Giang.
Xã mở bến đò ngay trận địa pháo năm xưa. Trác xin hợp tác giữ chân bơi đò ngang đưa khách qua sông. Anh dựng lán ngay ở bến. Lán vừa là chỗ cho khách đợi đò vừa là nhà của anh. Chiều chiều, sau buổi đi làm về, Giang cùng lũ bạn gái ra sông tắm giặt. Họ bơi đùa ríu rít trên sông. Có đứa mạnh mồm nheo nhéo gọi Trác. “Anh Trác ơi! Bao giờ cưới chị Giang để chúng em ăn cỗ?”. “Cưới nhanh lên kẻo chị ấy không chờ được nữa đâu. Trai thị trấn họ lên rước mất đấy”. Rồi thì cấu véo nhau, cười ré lên, lao đuổi nhau trên sông. Sóng nước ì oạp, bì bõm lan ra xô chiếc thuyền của Trác chòng chành nghiêng ngả.
Càng lẩn tránh Giang thì ông trời lại càng đưa Giang tới gần Trác. Một hôm, Giang ra bến giặt giũ. Bến vắng. Cô bị trượt chân ngã xuống sông. Thường thì không sao nhưng hôm đó Giang lại bị chuột rút. Cô vùng vẫy rồi chìm dần. Đang lúc “giã gạo” thì Trác bơi đò gần đó phát hiện được. Từ trên thuyền, Trác phi xuống bơi thẳng ra chỗ Giang, dìu Giang lên bờ. Anh vác ngược cô lên và chạy. Nước trong người Giang ồng ộc chảy ra. Sau đó, anh đặt cô nằm ngửa trên bãi cát rồi làm hô hấp nhân tạo. Lúc này, một số cô gái trong làng cũng vừa tới. Họ xúm lại giúp anh. Lát sau, Giang tỉnh dần. Cô ngơ ngác nhìn Trác và mọi người rồi hiểu rằng mình đã mắc nợ Trác ơn cứu mạng này.
Từ đó, Giang quay lại săn đón, chăm sóc Trác hơn. Cô hỏi thẳng lý do vì sao anh từ bỏ lời thề tình yêu năm nào. Trác ấp úng: “Anh không nói được đâu. Anh không thể mang lại hạnh phúc cho em. Thương anh thì em lấy chồng đi, Giang nhé”. Mặc, Giang vẫn cứ chờ. Kể cũng lạ, giá Trác lấy ai thì còn bảo là anh ấy phản bội mình. Đằng này, hơn ba chục tuổi rồi mà chẳng thấy anh tình ý với ai cả.
Giặc Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Bãi sông làng Ngọc trở thành nơi tập kết đạn dược, vũ khí từ nhà máy Z để theo sông đi các chiến trường. Thanh niên xã Tiên Phong ngày sản xuất tối ra bến vác đạn. Tinh thần chiến thắng sông Lô ngày nào lại ngùn ngụt lên cao. Trác xông xáo chỉ huy cánh trẻ. Lúc dưới sông, khi trên bến. Đặc biệt, khi Mỹ thả bom từ trường, thủy lôi xuống ngã ba sông, Trác dũng cảm xung phong cùng một số trai làng lái ca nô nhử phá chúng. Những cột nước dựng lên mỗi khi bom nổ. Nhìn thấy ca nô Trác phành phạch đằng xa người ta mới biết rằng anh còn sống. Những năm sáu bảy, sáu tám, bến sông làng Ngọc chất đầy đạn dược và khét lẹt khói bom. Tất cả vẫn an toàn. Tất cả đã chiến thắng như trận đánh giặc Pháp thu đông năm nào.
Bước qua tuổi ba mươi, trước sự thúc ép của bố mẹ, cuối cùng Giang cũng phải lấy chồng. Bà nhớ lại, ngày cưới bà, ông Trác vui lắm. Chính ông ấy thay mặt chi đoàn làm chủ hôn. Ông ôm đàn hát Trường ca sông Lô oai hùng lắm. Người đâu đến lạ. Người yêu đi lấy chồng phải buồn đằng này ông ấy lại vui, lại còn đàn hát nữa chứ. Nhưng mà số bà Giang khổ. Đứa con đầu chưa được ba tuổi thì chồng bà mất do một tai nạn. Trong những ngày khó khăn ấy, ông Trác thường xuyên đến bên động viên, an ủi bà. Rồi chính bà lại bị sa ngã. Bà có chửa đứa thứ hai không phải với ông Trác mà với tay cán bộ phòng lương thực huyện. Nó ngon ngọt dỗ dành bà để đến khi bà bụng to thì chạy mất. Dân làng hàng xóm đổ điều tiếng tất lên đầu ông Trác. Ông Trác ậm ừ càng làm cho bà đau hơn.
Cho đến năm ngoài bảy mươi tuổi, ông Trác mới nghỉ bơi đò. Ông sống bằng tiền trợ cấp thương binh và cái quán bán lặt vặt ở bến sông. Bà Giang ở với thằng Tèo. Nó là con thằng chửa buộm của bà. Bố mẹ nó làm nhà ở mãi tít trong gò. Bà thích ở một mình nhưng vợ chồng con gái bà, rồi vợ chồng thằng hai nữa đều không yên tâm. Chúng nó bàn nhau cho cu Tèo ra ở cùng để trông nom bà. Bà có tội với chồng đã đành, bà lại mắc nợ với ông Trác nữa.
Nghỉ “hưu đò”, ông Trác rảnh rang với cái quán bến sông. Cứ buồn buồn là ông lại nghêu ngao hát. “Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau, núi rừng âm u…”. Lũ trẻ trâu khoái ông lắm. Cánh thằng Tèo cứ bỏ trâu ở bãi rồi vào quán ông Trác để nghe lão kể chuyện đánh Pháp. Lần nào cũng thế, đến đoạn cao trào là ông Trác lại hùng dũng đứng lên giữa bầy trẻ, vung tay, khua chân, hướng mắt về tượng đài Chiến thắng sông Lô để hát. “Đoàn quân thời chinh chiến ca rằng…”. Thằng Tèo cười tít mắt. Nó thuộc lòng câu chuyện và bài hát này. Có hôm về nhà, nó bắt chước điệu bộ ông Trác kể, hát cho bà Giang nghe. Nghe xong, cả hai bà cháu cùng cười ngặt nghẽo. Vui lắm. Thế mà giờ ông ấy lại sắp bỏ đi rồi ư?
Đúng như linh tính mách bảo của bà Giang, nhà ông Trác khá đông người. Đèn điện sáng trưng. Hai bà cháu bà chạy vội vào trong sân. Một số khách chờ đò cũng có mặt. Họ thì thầm với nhau. Sắc mặt người nào người nấy đều nghiêm trọng. “Cụ Giang đây rồi! Nhanh lên vào với cụ ấy may còn kịp”. Trông thấy bà Giang, ông Tờ vội nói. Bà Giang líu ríu đôi chân lại bên giường ông Trác. Cu Tèo bám theo sau. Trên giường, ông Trác nằm bất động. Gương mặt ông tái nhợt. Đôi mắt ông nhắm nghiền.
“Anh Trác ơi! Em đây! Em là Giang đến với anh đây! Tỉnh lại đi anh”. Bà Giang nghẹn ngào nói, khẽ đặt tay lên ngực ông Trác. Bàn tay ông hơi nhúc nhích. Bà Giang vội chụp lấy đưa lên mặt mình. “Anh Trác! Em là Giang đây!”. Bà gấp gáp nhắc lại. Lão Trác từ từ mở mắt. Hình như ông cố vận nốt chút sức lực còn lại của mình để nhìn bà Giang lần cuối. Hai giọt lệ ông ứa ra nơi khóe mắt. Rồi ông thõng tay thả lỏng trong tay bà Giang, thở hắt ra rồi nhắm nghiền đôi mắt lại. “Cụ ấy đi rồi!”. Ông Tờ nói và buông tiếng thở dài. Bà Giang nức nở, gục đầu trên ngực ông. Thằng Tèo cũng mếu máo sụt sịt theo bà.
Lúc khâm liệm cho ông, ông Tờ và mọi người không khỏi sững sờ. Bộ phận thầm kín nhất của ông chỉ còn đúng một mẩu con con đủ cho việc tiểu tiện. Hậu quả của trận đánh Điện Biên năm xưa đây ư? Thương binh của ông Trác chính là chỗ này ư? Phải chăng, đó là lý do để ông “phản bội tình yêu” của bà Giang? Thế mà cả đời ông chịu mang tiếng “tằng tịu” với bà! Lại thêm món nợ nữa của bà Giang với ông Trác. Bây giờ thì ông đã thảnh thơi nằm đây.
Ngoài kia, trăng cuối thu vằng vặc sáng. Bóng tượng đài Chiến thắng sông Lô sừng sững in thẫm giữa trời đêm. Dưới sông, làng Chài í ới gọi nhau truyền đi tin dữ về ông Trác. Mái chèo khua nước ì oạp. Ngã ba sông mênh mang. Bến thì thầm sóng vỗ. “Dòng… sông… Lô… trôi…”.
Truyện ngắn của Đỗ Xuân Thu