Mẹ tôi sinh ngày 15/3/1930 và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo có 3 người con (mẹ tôi là con út), ở miền đất bán sơn địa của tỉnh Hải Dương. Nghề nông là nghề truyền đời của ông bà tôi. Để có thêm bát cơm cho gia đình, ông tôi còn làm nghề đánh đá (khai thác đá), nhưng mỗi năm cũng thiếu ăn khoảng 3 – 4 tháng. Bụi đá và những ngày cực nhọc dần tàn phá cơ thể ông cho đến chết. Bà ngoại tôi cũng theo ông về với các cụ sau đó không lâu. Từ đó mẹ tôi đi ở cho địa chủ.
Đầu năm 1948, anh trai mẹ tôi là huyện đội phó, đã giác ngộ, dìu dắt mẹ tôi tham gia Phụ nữ Cứu quốc và tham gia du kích; mẹ tôi được đi học Bình dân học vụ. Mẹ tôi luôn hoàn thành tốt những công việc được đoàn thể giao cho, được cán bộ thôn xã tín nhiệm, bà con xóm làng quý mến. Ngày 14/12/1949, Chi bộ thôn Khuê Bích, xã Thượng Quận, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương kết nạp đồng chí Trần Thị Am là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Mẹ giơ nắm tay trước Đảng kỳ, thề sẽ trọn đời theo Đảng.
Ngày 12/2/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh Tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực của toàn thể nhân dân để phục vụ cho nhu cầu kháng chiến. Mẹ tôi xung phong nhập ngũ. Số người xung phong tình nguyện được cán bộ về xã khám tuyển, rồi tiếp tục vào chiến khu Đông Triều khám lần 2. Hôm đó cả xã có 142 người đi khám thì trúng tuyển 110 người (trong đó có 42 nữ). Mẹ tôi và 1 người nữ nữa được chọn bổ sung vào bộ phận tiếp vận (Trực tiếp phụ trách là ông Sính) của Trung đoàn 98 do ông Lê Mạnh Hùng là Trung đoàn trưởng, ông Lê Quang Ấn làm Chính ủy, ông Phạm Sinh làm Phó Chính ủy.
Mẹ tôi chính thức được nhập ngũ ngày 02/02/1950; Cũng từ đó, cuộc đời mẹ đã mở sang trang mới. Mẹ được bổ sung vào đơn vị toàn phụ nữ thuộc Trung đội tiếp vận; sau chuyển sang Trung đội 22 là quản trị (đồng chí Bế Kim Doanh phụ trách), thuộc Ban Cung cấp của Trung đoàn Bộ 98; thời gian này đóng ở vùng Bến Tắm, Trại Gạo, Đồng Châu thuộc vùng căn cứ của Chiến khu Đông Triều. Nhiệm vụ của Trung đội là vận chuyển lương thực, thực phẩm, quân trang cho các đơn vị chiến đấu, có khi đi lĩnh tiền ở Bản Thi, xã Yên Thịnh, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Việc lĩnh tiền cả đi và về hơn 1 tháng trời, đều là đi bộ. Có hôm trời mưa đêm như trút nước, mọi người sẵn sàng bọc hàng cho khỏi ướt mà quên đi bản thân mình.
Cuộc kháng chiến lúc này đang gặp nhiều khó khăn, mẹ và các đồng chí nữ vẫn dùng trang phục áo gụ, quần đen may bằng vải diềm bâu đem đi từ nhà. Trung đoàn 98 đóng trong khu vực dân cư, việc sinh hoạt có nhiều bất tiện. Bữa ăn hàng ngày, mỗi người được 2 bát cơm gạo xay, ăn với rau tàu bay chấm muối trắng; việc này đã hình thành “Khẩu hiệu”: “Cơm gạo xay, tàu bay, muối trắng”. Công việc thì vất vả, đói rét và kỷ luật nghiêm, vì vậy, mới nhập ngũ được 6 tháng, một số chị em không chịu đựng được gian khó, chỉ khóc lóc và xin về. Đồng chí Trung đoàn trưởng Lê Mạnh Hùng đã tập hợp chị em ở Trung đội tiếp vận để làm công tác tư tưởng, đồng chí nói: “Bộ đội còn gian khổ gấp nhiều lần thế này, thậm chí còn hy sinh nữa. Hôm nay Trung đoàn lấy tinh thần tình nguyện, đồng chí nào chịu đựng được kỷ luật sắt của quân đội thì ở lại sẽ đứng bên phải tôi, đồng chí nào không chịu được thì ngồi tại chỗ, rồi sẽ cho về”. Mẹ và số ít chị em đứng về phía bên tay phải Trung đoàn Trưởng, tình nguyện ở lại quân đội. Cuối cùng có 12 chị em ở lại quân đội, đơn vị giải tán Trung đội nữ tiếp vận, số chị em ở lại bổ sung cho các bộ phận thuộc Trung đoàn Bộ. Mẹ được phân công về làm cấp dưỡng cho Ban Cung cấp của Trung đoàn. Mẹ luôn tích cực gương mẫu trong công tác nên được cấp trên và đồng đội tín nhiệm.
Khi mẹ tôi đi tòng quân nhập ngũ thì ở quê đã xảy ra trận càn, đồng chí Bí thư chi bộ bị giặc giết, một số đồng chí đảng viên trong chi bộ bị địch bắt, cơ sở Đảng ở xã Thượng Quận bị tan vỡ; do vậy, mẹ tôi không chuyển được giấy giới thiệu sinh hoạt Đảng. Ngày 14/10/1950, mẹ được Chi bộ của Trường Bổ túc Văn hóa, thuộc Ban Cung cấp của Trung đoàn 98 tổ chức kết nạp Đảng lại lần thứ 2 và được công nhận đảng viên chính thức ngày 01/5/1951. Trong thời gian này, mẹ được tham gia Chiến dịch Hoàng Hoa Thám. Có những lần bão lũ, cả đơn vị không được tiếp gạo, phải ăn sim, ăn ổi dại, ăn măng rừng, rau dại… bị say đến quay cuồng. Mẹ tôi tự nhủ bản thân cần cố gắng góp phần nhỏ cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Do công tác tích cực, nên sau chiến dịch, mẹ được cấp trên đề bạt làm Tiểu đội phó.
Mẹ tôi kể lại có một lần, đem cơm ra cho anh em, biết khu vực đó vừa bị máy bay địch quần đảo oanh tạc, ném bom và câu đạn pháo đến nát hết cỏ cây, xới tung cả đất đá. Khi càng gần đến nơi thì thấy cảnh tượng tan hoang. Mẹ gọi anh em ra nhận cơm, thì không còn ai ra cả. Mẹ cứ thế khóc tu tu như một đứa trẻ bị đòn oan, gánh gánh cơm quay trở về đơn vị mà mẹ cứ khóc suốt, mẹ thấy nặng trĩu đôi vai. Tháng 10/1951, mẹ được điều về làm tổ trưởng nuôi quân của Đoàn An dưỡng 22, thuộc Sư đoàn 316 ở Bản Chu, Thất Khê (Cao Bằng). Lúc đó, mẹ tôi được đơn vị phân công phụ trách bộ phận tiếp phẩm của 8 đại đội, kiêm tiếp phẩm của Đoàn Bộ. Hàng ngày cứ 4h chiều, mẹ cùng 8 đồng chí bộ đội là nam giới có mặt ở chợ Thất Khê, mua thực phẩm rồi cấp phát tại chợ cho 8 đại đội và giữ lại phần thực phẩm của Đoàn Bộ. Khi giao đủ thực phẩm cho 8 đơn vị, mẹ lại đi bộ một mình trên quãng đường rừng 5 – 6km, gánh trên vai 30 – 35kg tiêu chuẩn thực phẩm của Đoàn Bộ, hôm nào về đến đơn vị cũng khoảng 10h đêm. Trời tạnh ráo thì đỡ vất vả, gặp hôm trời mưa đường trơn, bị ngã đến bầm dập, cả gánh đồ rơi xuống. Có hôm chiếc đèn bão rơi văng xuống ruộng, mẹ lại phải lọ mọ xuống tìm. Qua 1 năm đảm nhận công việc, mẹ đã làm tròn trách nhiệm, không mất mát, hao hụt, không tham ô lãng phí, mọi việc đều minh bạch rõ ràng; đảm bảo cho bộ đội ăn ngon, ăn đủ, ăn hết tiêu chuẩn. Vì xác định tư tưởng vững vàng, mẹ luôn đầu tàu trong công tác, tháng nào mẹ cũng được anh em bình bầu là Chiến sĩ gương mẫu.
Tháng 2/1952, mẹ được đơn vị bình bầu là Chiến sĩ thi đua của Đoàn An dưỡng (Đoàn có 9 Chiến sĩ thi đua, gồm 8 người của 8 Đại đội và 1 Chiến sĩ Thi đua của Đoàn Bộ, nhưng chỉ có một mình mẹ là nữ). Trong Lễ mít tinh, mẹ vinh dự được nêu gương cùng đồng chí Tô Văn Bưu: là 2 Chiến sĩ Thi đua tiêu biểu nhất được cử về dự Lễ mừng công Chiến sĩ Thi đua của Đại đoàn 316 đóng tại Phổng (Bắc Giang). Mẹ được báo cáo thành tích trước Lễ Mừng công của Đại đoàn (được suy tôn là Chiến sĩ Thi đua của Đại đoàn 316).
Sau Lễ Mừng công, mẹ được đề bạt từ Tiểu đội phó lên Tiểu đội trưởng, được điều động về làm Tiểu đội trưởng nuôi quân của Phòng Cung cấp – Đại đoàn 316 và được đi tham gia Chiến dịch Tây Bắc, năm 1952. Lúc đầu gặp nhiều khó khăn, xong với sự khiêm tốn, mềm dẻo mẹ đã thể hiện được trách nhiệm cũng như hoàn thành công việc được giao. Mẹ luôn đầu tàu, gương mẫu trong mọi việc và luôn giúp đỡ đồng đội của mình.Lúc đó đơn vị hành quân lên Tây Bắc, mỗi người phải gánh dụng cụ nồi niêu xoong chảo và tiêu chuẩn gạo ăn của bản thân khoảng 30kg trên vai), vượt qua Đèo Khế, đèo Kháng Nhật. Mẹ gánh phần trọng lượng được phân công của mình lên đỉnh đèo, nhờ anh em khác trông giúp thì quay lại gánh giúp cho đồng chí yếu hơn. Ngoài việc lãnh đạo Tiểu đội và cùng nấu cơm cho đơn vị, mẹ còn phải vào bản mua rau để phục vụ các bữa ăn. Có hôm mẹ sốt mê man, đồng chí thủ trưởng quyết định để mẹ ở lại nhà dân, nhưng mẹ khóc và tha thiết xin đi. Các đồng chí thấy mẹ nhiệt tình, nên đơn vị đồng ý cho mẹ tiếp tục hành quân cùng đơn vị, các anh em khác san nhau gánh giúp. Có những đêm hành quân, khi được dừng nghỉ giải lao thì cứ để nguyên đồ đạc và tranh thủ chợp mắt. Cứ thế, bộ đội và dân công cùng nhau hành quân lên Tây Bắc.
Năm 1953 tổng kết chiến dịch Tây Bắc, mẹ được bầu là Chiến sĩ Thi đua của Đại đoàn và được báo cáo thành tích trước Đại hội Chiến sĩ Thi đua của Đại đoàn 316; sau đó được đề bạt là Trung đội phó. Kết thúc chiến dịch, đơn vị về đóng quân ở Thọ Xuân, Thanh Hóa, học tập Chỉnh quân chính trị để quy thành phần. Đơn vị cử mẹ tôi đi báo cáo trong đợt chỉnh quân.
Sau đợt chỉnh quân năm 1953, đơn vị lại hành quân đi Chiến dịch Điện Biên Phủ. Dọc đường hành quân từ Thanh Hóa toàn là đi bộ, đêm đi, ngày vào rừng nghỉ. Trong thời gian này, mẹ tôi được điều động làm cấp dưỡng cho đồng chí Chính ủy Sư đoàn Chu Huy Mân và đồng chí Sư đoàn trưởng Lê Quảng Ba; đồng thời là Chi ủy viên của Phòng Tham mưu, kiêm tổ trưởng Đảng của cơ quan Bộ Tư lệnh Sư đoàn 316.
Trong công tác, bất cứ nhiệm vụ nào được phân công – mẹ cũng luôn khắc phục khó khăn để hoàn thành xuất sắc. Các tờ báo của Sư đoàn ra hàng tuần thì hầu như mẹ đều được nêu danh trên đó. Khi bước vào đánh đợt 2 của Chiến dịch, mẹ được điều lên phụ trách 1 trung đội (trong đó có 1 tiểu đội bộ đội và 2 tiểu đội dân công làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực, thực phẩm từ Trạm trung tuyến ra hỏa tuyến, để rút 2 tiểu đội bộ đội bổ sung cho đại đội Vinh Quang làm nhiệm vụ khiêng cáng thương binh tại mặt trận). Trung đội mẹ tôi phụ trách làm nhiệm vụ nhận lương thực, thực phẩm tại kho, mỗi người nhận 2 sọt với trọng lượng từ 25 – 30kg, đi bộ 7km sẽ cho anh chị em ngủ lại tại lán trong rừng. Đến 5h sáng hôm sau, cả đơn vị lại tiếp tục vượt qua quãng đường khoảng 5 km. Nơi này là trọng điểm bắn phá của địch. Từ đây đến Mường Thanh theo đường chim bay khoảng 1km. Giặc bắn phá ác liệt. Có một hôm, mẹ tôi chỉ huy trung đội vừa đi được nửa quãng đường thì máy bay địch thả bom Napan cháy ngay phía trước lối đoàn đến và bị pháo từ Mường Thanh bắn tới. Lúc này có ý kiến đề nghị mẹ cho đoàn quay trở lại để tối đi, nhưng mẹ phán đoán tình hình là nếu quay lại lúc này là rất nguy hiểm, hơn nữa nếu để đến tối thì thực phẩm sẽ ôi và hỏng hết, bộ đội sẽ 1 ngày không có lương thực, thực phẩm. Lúc này nếu mẹ đi trước thì anh chị em đi sau sẽ dừng lại, nếu mẹ đi sau thì đằng trước dừng lại. Do vậy, lúc thì mẹ tiến lên phía trước, lúc lui lại đằng sau để động viên mọi người. Lúc đó, trên vai mẹ tôi là gánh hàng 25kg. Mẹ thương những anh chị em gầy yếu nên thường dành mang giúp đồ đạc của họ. Cả đơn vị quyết tâm nhằm thẳng hướng Mường Thanh mà đi; chỉ hơn 1 tiếng đồng hồ thì cả đơn vị vượt qua làn bom đạn của địch, đảm bảo an toàn người và tài sản, đến đường giao thông hào mới cho mọi người nghỉ giải lao 20 phút. Hôm đó đơn vị ra đến cơ quan tiền phương chậm hơn mọi ngày khoảng 1 giờ đồng hồ. Đồng chí Thủ trưởng nói: “Chúng tôi chuẩn bị báo tử các đồng chí”. Các thủ trưởng và anh em ở cơ quan tiền phương mừng cả đoàn đã an toàn, vì biết đoạn đường đó đang bị bom Napan cháy và đại bác của địch vẫn bắn lên ác liệt.
Sau đợt đó, cá nhân mẹ tôi và tập thể đơn vị được Bộ Tư lệnh Tiền phương tặng Bằng khen. Bản thân mẹ được đề bạt là Trung đội trưởng. Khi tổng kết chiến dịch, mẹ tôi được bầu là Chiến sĩ Thi đua của Đại đoàn 316 và được đi dự Lễ Mừng công của Đại đoàn sau Chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau Đại hội Liên hoan Chiến sĩ Thi đua của Sư đoàn xong khoảng 2 tuần, mẹ tôi được đồng chí Tuệ (Trưởng Ban Chính trị của Sư đoàn) thông báo: “Tôi thông báo chủ trương của Sư đoàn ủy, định xây dựng cho đồng chí và đồng chí Bang ở bên Hậu cần, đồng chí thấy thế nào?”. Lúc này mẹ tôi đang phấn đấu, nên chưa có ý định lấy chồng. Thực ra, mẹ cũng đã biết mặt đồng chí Bang là Tiểu đoàn phó ở Ban Hậu cần. Đây là một đồng chí người dân tộc Tày, thân hình cao lớn, đẹp trai và có nụ cười hiền lành. Trước đây mỗi lần đồng chí Bang lên Sư đoàn Bộ họp, họ cũng chỉ chào nhau theo kiểu xã giao mà chưa từng nói chuyện. Nghe nói, đồng chí Nông Ngọc Bang, sinh năm 1915, quê ở thôn Bó Bủn, xã Yên Thịnh, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Đồng chí Bang đã tham gia Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thuộc Chi đội Bắc Kạn từ tháng 12/1944.
Đồng chí Bang, tên thật là Nông Văn Bằng đã từng là Đại đội trưởng tiễu phỉ, dưới sự chỉ huy của đồng chí Bế Sơn Cương. Lúc đó đồng chí Bằng là Đại đội trưởng cùng đơn vị tiễu phỉ khắp một vùng rộng lớn, đến tận Pha Long (Mường Khương – Lào Cai). Vì đơn vị bám dân, bám bản nên đã được tổ chức đặt cho bí danh Tiến Thành. Sau này đồng chí Bình Minh (phu nhân Đại tá Bế Sơn Cương) kể lại: “Hồi ấy, Đại đội trưởng Tiến Thành là nỗi khiếp đảm của thực dân Pháp và tay sai, bọn chúng đã treo giải thưởng cho ai lấy được thủ cấp Tiến Thành, sẽ được thưởng 2 tạ muối”. Ông phải cải trang và làm con nuôi một gia đình người Dao (được gia đình ấy đặt tên là Triệu Bang) để hoạt động bí mật. Ông và đồng đội từng phục kích trong rừng để đánh địch nhiều ngày, nhiều tháng, đến mức độ quần áo rách, phải quấn lá cây để che đi phần thân dưới; có thời gian chỉ đem theo gạo rang, đổ gạo xuống miệng hầm để trong lúc phục kích có thể liếm lưỡi xuống chút gạo ấy đưa vào miệng cho đỡ đói”. Hai đồng chí quân nhân đã được tổ chức se duyên như thế. Họ tổ chức lễ thành hôn ngày 30/8/1954, sau khi bên nhau góp phần nhỏ bé cùng đất nước “làm một Điện Biên chấn động địa cầu”.
Chúng tôi tự hào là con của hai đồng chí Cựu Chiến binh Việt Nam!
N.T.N.H