Năm 2020, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa quyết định công nhận thêm 23 di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia trong toàn quốc, trong đó nón lá Sai Nga, thị trấn Cẩm Khê, huyện Cẩm Khê (Phú Thọ) được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia thuộc loại hình thủ công truyền thống.
Đây là niềm vui không chỉ cho các nghệ nhân và bà con Sai Nga nói riêng mà còn là niềm tự hào của nhân dân trong toàn huyện và toàn tỉnh; là bước đi quan trọng trong xây dựng phát triển thương hiệu cho sản phẩm làng nghề truyền thống của địa phương; giúp cho nghề làm nón ở làng nón lá Sai Nga phát triển hơn nữa, góp phần nâng cao đời sống cho nhân dân.Những ai có dịp về Sai Nga những ngày đầu năm mới Tân Sửu sẽ thấy được không khí hồ hởi phấn khởi của bà con nơi đây khi biết thông tin nghề nón làng mình là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Chia sẻ về gốc tích của nghề làm nón, các bậc cao niên ở địa phương cho biết nghề nón nơi đây xuất hiện chính thức và phát triển mạnh mẽ từ khoảng những năm 1950. Đầu tiên là một số người dân ở làng Chuông (nay thuộc Thanh Oai, Hà Nội) trong thời kì tản cư về đất Sai Nga họ đã mang theo nghề làm nón. Trải qua thời gian, nghề làm nón lá Sai Nga vẫn được người dân bảo tồn, phát triển. Dù vất vả nhưng dân làng ai cũng muốn bám chặt lấy nghề nón. Họ vẫn hàng ngày truyền kinh nghiệm cho các thế hệ con cháu. Những cô gái người Sai Nga biết nghề làm nón, khi lấy chồng về các xã lân cận, vì vậy cùng với Sai Nga, các làng Sơn Nga, Thanh Nga, Tùng Khê… đều có các hộ gia đình làm nón đều mang theo nghề làm nón.
Theo thống kê của xã Sai Nga cũ, trước kia hơn 90% số hộ trong xã làm nghề làm nón truyền thống. Nay có khu Công nghiệp Cẩm Khê, số hộ làm giảm đi đôi chút. Ở Sai Nga, từ người già đến trẻ nhỏ đều biết làm nón. Hiện xã Sai Nga có một Hợp tác xã nón lá với 26 hộ thành viên, các gia đình trong Hợp tác xã liên kết hỗ trợ nhau về kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm đầu vào, đầu ra. Hàng năm Hợp tác xã nón tổ chức được các lớp tập huấn về kỹ thuật làm nón. Chị Nguyễn Thị Thanh Tuyền – Giám đốc Hợp tác xã nón lá Sai Nga phấn khởi cho biết: “Năm nay rất vinh dự cho làng nghề chúng tôi được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, đây là niềm tự hào của người dân trong làng nghề và trong tỉnh; từ đây mở ra hướng đi phát triển mới cho làng nghề và các thành viên trong Hợp tác xã đã cùng giúp đỡ lẫn nhau truyền dạy nghề cho nhau, đặc biệt chú ý truyền dạy nghề cho thế hệ trẻ nhằm bảo tồn phát triển nghề nón lá truyền thống ở địa phương”. Theo bà Nguyễn Thị Thảo, 68 tuổi ở khu Văn Phú 3 cũng cho biết: “Tôi nhớ lúc tôi còn rất bé đã học ông bà, bố mẹ làm nón, đến nay đã có hơn 50 năm trong nghề. Tôi đã truyền dạy nghề cho các em, các cháu tôi từ lúc còn rất nhỏ giờ đã may nón thành thạo. Tận dụng thời gian rảnh rỗi lúc nông nhàn làm thêm. Thu nhập mỗi tháng cũng được 4 đến 5 triệu đồng, đủ tiền chi tiêu sinh hoạt hàng ngày”.
Để làm ra một chiếc nón phải trải qua rất nhiều công đoạn. Nguyên liệu làm nón gồm: lá, khuôn, vành, mo tre, hoặc mo vầu, sợi cước, sợi len để nhôi và một lưỡi cày để là phẳng lá. Khi có đủ nguyên liệu thì bắt tay vào làm từng công đoạn. Lá làm nón được bà con mang từ Hà Tây, Thanh Hóa về theo chợ phiên, cứ năm ngày chợ họp hai buổi. Một chiếc nón được hoàn thành phải mất khoảng 3 giờ, muốn nón được trắng hơn khi làm xong hơ qua diêm sinh. Giữa hai lớp lá mỏng, những hình hoa lá được cài vào nón lá. Một chiếc nón đẹp đảm bảo chọn lá phải trắng, đường khâu mượt mà, những vết khâu trải trên mỗi vành theo những khoảng cách đều tăm tắp. Về sản phẩm, hiện nay người dân trong xã chủ yếu làm 2 loại: nón kỹ (là loại nón được tuyển chọn kỹ càng, lá làm nón phải trắng, phẳng, vanh nón phải tròn, bên trong được lót ni lông và cài hoa hoặc những hình ảnh cảnh đẹp quê hương đất nước; khi may phải tỉ mỉ không được nát; sau khi xong nón được quang dầu cài quai, chóp nón được mạn) với giá 55.000 đến 80.000 đồng/chiếc; nón thưa (là nón, lá và các nguyên liệu tuyển chọn ít công phu và may mũi dài hơn, được bán sang Trung Quốc) có giá 20.000 đến 40.000 đồng/chiếc. Bình quân mỗi năm cả làng sản xuất ước đạt hơn 600.000 chiếc nón, doanh thu hàng chục tỷ đồng. Sản phẩm làm ra đều được thương lái thu mua tận nơi hoặc bán tại chợ phiên, nhưng đa phần người làm nón ở Sai Nga vẫn thích đem nón đến chợ phiên và coi đó như một nét văn hóa truyền thống của làng mình. Chợ phiên Sai Nga họp năm ngày hai phiên chợ vào các ngày 2, 4, 7, 9 chủ yếu mua bán nón, vật liệu làm nón: lá, cước, len, vành, hoa nón… Nón làng Sai Nga được đưa đi bán các nơi như: các Hội chợ thương mại; dịp Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng; các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên… và xuất sang cả Trung Quốc. Sản phẩm nón Sai Nga thanh thoát, đẹp, nhẹ, bền, chắc, có thể sử dụng để che mưa che nắng; cũng có thể để cho các cô gái tạo dáng, làm duyên; làm quà tặng cho những người thân làm kỷ niệm gợi nhớ về hồn quê đất Việt. Vừa làm nón các thành viên vừa cùng nhau trò chuyện trao đổi phát triển kinh tế, kinh nghiệm giữ lửa ấm gia đình, gắn kết tình làng nghĩa xóm và đặc biệt giữ gìn văn hóa của làng quê. Năm 2004, nghề làm nón Sai Nga đã chính thức được công nhận làng nghề cấp tỉnh. Từ nghề làm nón, đời sống của người dân được cải thiện, nâng lên rõ rệt, nhiều hộ gia đình có sắm sửa tiện nghi, vật dụng có giá trị, xây dựng nhà cửa khang trang.
Việc được công nhận di sản văn hóa phi vật thể là niềm tự hào và cũng mở ra một hướng đi mới để từ chỗ là nghề phụ phát triển mạnh mẽ thành một nghề chính cho thu nhập cao. Muốn vậy, cần nâng cao tay nghề đổi mới về mẫu mã để nghề nón lá Sai Nga có “thương hiệu”, giữ được nét văn hóa của làng nghề truyền thống. Bà Trần Thị Thu Hưởng – Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cẩm Khê cho biết “Rất tự hào ở Cẩm Khê làng nghề nón lá Sai Nga được công nhận di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Trong thời gian tới, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện sẽ phối hợp với các ngành chức năng triển khai việc đưa máy móc hiện đại để giảm công lao động cho người dân làm nghề. Ngoài ra, huyện cũng sẽ tổ chức cho đại diện làng nghề là thợ sản xuất lâu năm có tay nghề giỏi, uy tín trong làng, lãnh đạo làng nghề đi tham quan, học tập. Đồng thời tập trung phát triển và đưa thương hiệu nón lá Sai Nga không chỉ ở trong tỉnh, các tỉnh lân cận mà ra toàn quốc. Hiện các cấp, các ngành từ tỉnh đến huyện, xã đang quan tâm tiến tới đầu tư xây dựng nhà trưng bày và giới thiệu, quảng bá sản phẩm gắn với du lịch làng nghề, hành trình Di sản Hát Xoan và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương”.
Việc nghề nón lá xã Sai Nga được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là niềm tự hào, mở ra hướng đi mới cho người dân nơi đây, song cũng đặt ra nhiều thử thách về bảo tồn và phát triển. Trong đó cần tập trung quan tâm phát triển cơ sở hạ tầng của làng nghề, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu du lịch làng nghề với lợi thế đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai, xây dựng trung tâm trưng bày, giới thiệu sản phẩm, khu sản xuất tập trung, có đủ điều kiện để làm điểm du lịch cho khách tham quan đến làng nghề. Tăng cường hơn nữa công tác đào tạo nghề theo hình thức truyền nghề; xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các nghệ nhân, thợ giỏi tham gia đào tạo nghề, tổ chức các cuộc thi tay nghề, phong tặng danh hiệu nghệ nhân, thợ giỏi; đầu tư xây dựng phát triển thị trường và thương hiệu cho sản phẩm làng nghề để nâng cao thu nhập cho người làm nghề.
MẠNH THUẦN