Chiến tranh đã đi qua, song hồi ức về một thời tham gia quân ngũ vẫn còn sống mãi trong tâm trí người cựu chiến binh đã gần 40 năm tuổi Đảng Hà Mạnh Hồng. Bác Hồng hiện là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Thanh Minh – thị xã Phú Thọ.
Bác Hồng nhập ngũ tháng 12/1980 huấn luyện tại Tiểu đoàn 5 – Sư đoàn 411 – Quân khu II, đến tháng 6/1981 được điều về Đại đội 1 – Xây dựng – Cục hậu cần Quân khu II, làm nhiệm vụ xây dựng trại giam tù binh Trung Quốc ở xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Tháng 6/1982 được cấp trên cử đi học tại Trường Sỹ quan Lục quân 2 (chuyên ngành đào tạo: Sỹ quan chỉ huy Binh chủng hợp thành) tại căn cứ Nước Trong ở xã Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Tháng 6/1985 ra trường được điều về Trung tâm huấn luyện chiến sỹ mới, Quân đoàn 4 tại căn cứ Sóng Thần, Thủ Đức – TP Hồ Chí Minh, với nhiệm vụ chuyên huấn luyện bộ đội bổ sung cho các đơn vị trong Quân đoàn, trong đó chủ yếu là bổ sung cho các đơn vị đang chiến đấu ở chiến trường Campuchia là Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9. Tháng 6/1987 được cấp trên điều về công tác tại Đại đội 11, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 141, Sư đoàn 7, Quân đoàn 4. Đơn vị bác được giao làm nhiệm vụ quốc tế chiến trường Camphuchia, tham gia bảo vệ chiến đấu trên địa bàn tỉnh Kratie và tỉnh Kampong Cham tại Campuchia. Đây là quãng thời gian với bác Hồng tuy khó khăn, gian khổ nhưng đầy ắp tình đồng đội.
Cựu chiến binh Hà Mạnh Hồng nhớ lại: Tháng 3/1988, khi đơn vị chúng tôi được rút từ địa bàn huyện Sơ Long – tỉnh Kratie về hoạt động trên địa bàn huyện Đầm Be – tỉnh Kampong Cham gần biên giới Việt Nam hơn. Lúc này tiểu đoàn tôi có 3 Đại đội bộ binh, 1 đại đội hỏa lực là lực lượng chủ yếu của tiểu đoàn, còn lại là các trung đội trực thuộc tiểu đoàn bộ. Gọi là tiểu đoàn bộ binh chứ lúc đó quân số còn rất ít, mỗi đại đội bộ binh còn từ 25 – 30 người, cả tiểu đoàn còn hơn 100 người. Từ cuối 1987 chúng tôi đã không có quân bổ sung nữa nên lực lượng rất mỏng, đại đội 13 và đại đội 15 (Hỏa lực) cùng các trung đội trực thuộc đóng quân gần tiểu đoàn bộ nên có nhiệm vụ bảo vệ tiểu đoàn bộ, hiếm khi phải đi truy quét, còn lại đại đội 11 chúng tôi và đại đội 12 cách xa tiểu đoàn bộ, đại đội 12 đóng quân ở xa nhất chừng trên dưới 5 km, thì thay phiên nhau đi truy quét, có lần cả 2 đại đội cùng đi, võng không đủ cho 2 đại đội nằm, thế là chúng tôi trong quá trình đi truy quét buộc phải nằm dưới nền đất rừng, có nhiều lá cây khô mục nát, nơi trú ngụ của các loài rắn, rết và bò cạp rất độc, cùng với những đàn kiến bọ lọt chuyên kiếm ăn về đêm rất nguy hiểm. Lúc đó hình như địch đoán được ý định của ta sắp sửa rút quân về, nên chúng tăng cường áp sát các phum, sóc gây cho chính quyền bạn nỗi bất an, lo sợ. Bạn luôn đề nghị bộ đội Việt Nam tăng cường truy quét, khiến chúng tôi phải đối mặt với rất nhiều gian nan, hiểm nguy luôn rình rập trên mỗi bước chân trong các cánh rừng già, rậm rạp nơi đất bạn. Tôi không bao giờ quên vào ngày 26 và 27/3/1988, cách đây hơn 30 năm trước, sau hơn một tuần len lỏi trong rừng truy tìm dấu vết địch với quãng đường hơn 100 km, mệt mỏi và khát nước vì giữa mùa khô tất cả các con suối trong địa bàn hoạt động của đơn vị chúng tôi đều khô cạn. Chiều tối ngày 26/3/1988, chúng tôi tiến vào phum Công Pông Rieng với ý định kiếm nước uống cho anh em, phum này trước đây tiểu đoàn tôi đã đóng quân gần đấy nên chúng tôi rất rành về các đường đi, lối lại trong phum. Đề cao cảnh giác có thể trong phum có địch, nên chúng tôi tổ chức cho 2 trung đội do tôi trực tiếp chỉ huy đi vòng ra cánh rừng sau phum, bố trí đội hình phục kích 2 bên con đường mòn từ phum vào rừng, để đón đánh địch từ trong phum chạy ra tẩu thoát vào rừng. Trung đội còn lại do anh Xuyền đại đội phó quân sự chỉ huy theo đường mòn vào thẳng phum. Đúng như dự đoán của chúng tôi, trong phum có địch, thấy bộ đội Việt Nam đang tiến vào phum, địch lập tức bỏ chạy ra 2 con đường dẫn ra rừng mà chúng tôi đang phục kích. Kết quả chúng tôi tiêu diệt được 2 tên tại chỗ, một số tên chạy thoát. Chúng tôi báo cáo về trung đoàn kết quả trận đánh. Vì trời đã tối, đường về đơn vị còn xa trên 12 km, nên chúng tôi cho bộ đội vào phum nghỉ ngơi, để hôm sau trở về nơi đóng quân của đơn vị. Đêm hôm đó, chúng tôi nghỉ lại trong phum, nhưng hầu như thức trắng vì tiếng chó sủa báo hiệu một điều chẳng lành sắp tới. Cậu Huy lính trinh sát tiểu đoàn nằm cạnh tôi nói: “Em lo lắm anh ạ, chắc chắn địch bao vây và phục kích mình trên đường về rồi, anh bảo anh Xuyền sáng mai mình cắt góc phương vị vào rừng để về nhé!”. Tôi trấn an: Yên tâm đi, bọn anh đã có kế hoạch rồi! Miệng tôi nói vậy nhưng trong lòng cũng thấy bất an lắm. Sáng hôm sau chúng tôi lên đường, tôi được phân công đi giữa đội hình, đồng chí Xuyền đại đội phó quân sự quyền chỉ huy đơn vị đi ở 1/3 đội hình phía trước. Chúng tôi cắt góc phương vị để luồn tránh các ổ phục kích của địch trên các con đường xung quanh phum. Đi được khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, chừng 4 km thì không hiểu sao anh Xuyền lại cho anh em đi ra đường mòn, tôi vừa bước từ rừng ra thấy đường mòn, chợt có cảm giác ớn lạnh sống lưng, đang có ý định tiến lên chỗ anh Xuyền để bảo anh ấy cho anh em đi vào rừng thì bỗng… uỳnh… uỳnh… 2 tiếng nổ chát chúa vang lên, kèm theo khói bụi dày đặc, trùm kín đội hình đi đầu. Tôi vội lăn xuống vệ đường, trong đầu thoáng nghĩ: Bị phục kích rồi! Tôi nghe đằng trước có tiếng… tóc… oành… đạn M79. Tôi bật dậy lao về phía trước, đập vào mắt tôi là đồng chí Cường (anh nuôi), lưng đeo ba lô trên có cái nồi 20 lăn xuống rãnh nước mắc kẹt. Tôi chạy lại kéo vội lên, may Cường không sao. Thấy đồng chí Cốm cách đó vài mét cũng bị lọt xuống rãnh nước, đang ôm bụng kêu la, đau đớn. Tôi gọi y tá băng bó cho Cốm xong thì thấy đồng chí Xuyền gọi: “Hồng ơi, cho anh em cảnh giới 2 bên sườn và phía sau, rồi lên đây”. Tôi giao nhiệm vụ cho các đồng chí cảnh giới xong, chạy lên chỗ đồng chí Xuyền. Tôi thấy anh đang ngồi bên vệ đường, hai tay ôm mặt khóc nói trong nước mắt: “Ông lên xem anh em thương vong thế nào, rồi liên lạc về Trung đoàn báo cáo tình hình xin chi viện, tôi không chỉ huy đơn vị được nữa rồi”, nói xong anh ấy lại khóc. Tôi không nói gì, lặng lẽ đi về phía trước và gọi y tá Tấn cùng đến kiểm tra các đồng đội đang nằm bất động. Trước mặt tôi là Tâm, chiến sỹ xạ thủ B40 nằm ngửa, vẫn còn sống, một chân gãy lìa, lòi xương ống chỉ còn tí da dính vào, thấy tôi và Tấn, Tâm bảo “Đồng hương ơi! Mình đau lắm cho mình một phát đi”. Thấy Tấn không nói gì nó lại nhìn tôi van nài: “Em đau lắm anh ạ, anh bắn cho em phát đạn cho em chết đi, em không chịu được nổi nữa đâu”. Tôi vội an ủi: em gắng chịu để anh bảo y tá băng cho, rồi anh sẽ đưa em về đơn vị, tôi nói dối vậy thôi chứ tôi biết Tâm không thể qua khỏi vì ngoài cái chân gãy lìa ra, trên người nó chi chít những vết thương rất nặng, máu vẫn không ngừng chảy ra từ những vết thương đó. Nhìn đồng đội chết dần không có cách cứu chữa mà lòng tôi đau đớn. Để y tá Tấn chăm sóc cho Tâm, tôi đi tiếp về phía trước đội hình, những đồng đội của tôi: Ôi! Thanh, Sơn, khẩu đội đại liên và Nghĩa đều đã hy sinh, còn Huy đi đầu đội hình vẫn còn sống nhưng hai chân đều đứt lìa, trơ xương, hở gân trắng, Huy thở dốc và miệng phập phồng toàn bong bóng máu, tôi biết chắc chắn là nó không thể qua khỏi. Chúng tôi cố gắng liên lạc báo về tiểu đoàn xin chi viện giúp đỡ. Tôi cùng đồng đội chuyển 5 đồng chí: Huy, Thanh, Sơn, Nghĩa, Tâm đã hy sinh, 2 đồng chí Trung và Cốm bị thương về một chỗ. Tôi nhìn đồng đội hy sinh mà lòng đau đớn, xót xa vô hạn: “Huy ơi, Thanh ơi, Sơn ơi, Nghĩa ơi, Tâm ơi… các em hãy yên nghỉ, các anh sẽ đưa các em về với Tổ quốc”. Ngay đêm hôm đó, đơn vị đã đến chi viện kịp thời và làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ.
Giờ đây đã hơn 30 năm trôi qua, nhưng ký ức một thời cùng đồng đội vào sinh, ra tử vẫn in đậm không phai mờ trong lòng cựu chiến binh Hà Mạnh Hồng, nhớ về đồng đội bác Hồng không khỏi bùi ngùi, thương tiếc. Trong những ngày tháng 7 tri ân thương binh – liệt sỹ, mỗi chúng ta hãy dành một nén tâm nhang nhớ về các anh. Các anh sẽ còn sống mãi trong tim những đồng đội còn sống hôm nay như bác Hồng và bao đồng đội khác.
TRẦN LIÊN