Nam Cao và Tô Hoài là hai cây bút xuất sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Nếu như Nam Cao khai thác đề tài người nông dân ở làng Đại Hoàng – quê hương của nhà văn để sáng tạo kiệt tác Chí Phèo thì Tô Hoài lại rất thành công với đề tài người lao động miền núi Tây Bắc để dựng nên truyện ngắn xuất sắc Vợ chồng A Phủ. Đọc “Chí Phèo” của Nam Cao và “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài hẳn bạn đọc không thể quên được hai nhân vật Chí Phèo và Mị, nhất là sự hồi sinh nhân tính của hai nhân vật.
“Hồi sinh” có nghĩa là sống lại. “Hồi sinh nhân tính” là tính người, tình người được sống lại. Sự hồi sinh nhân tính thường diễn ra sau những biến cố lớn trong cuộc đời, có sự tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của những người đã tự đánh mất chính mình. Trong văn học, ta đã từng gặp sự hồi sinh ấy ở những nhân vật đã bị tha hóa. Sau khi bị tha hóa, họ đều có quá trình thức tỉnh về tâm hồn. Có thể kể đến Trương Sinh (Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ), Hộ (Đời thừa, Nam Cao),… Nếu như Trương Sinh thức tỉnh sau cái chết oan uổng của vợ, thì Hộ thức tỉnh sau khi đánh đuổi vợ con vì gánh nặng cơm áo. Trương Sinh đã lập đàn giải oan cho vợ, Hộ đã khóc, giọt nước mắt của Hộ chính là “tấm kính biến hình vũ trụ”, thanh lọc tâm hồn anh, giúp anh đứng vững trên bờ vực thẳm của sự tha hóa, bằng chứng cho sự thức tỉnh, hồi sinh nhân tính của nhân vật. Còn sự hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị được Nam Cao, Tô Hoài dẫn giải như thế nào?
Để lí giải sự hồi sinh nhân tính của hai nhân vật, Nam Cao và Tô Hoài đã viện dẫn đến những tác nhân tác động từ bên ngoài. Đối với Chí Phèo là cuộc gặp gỡ người đàn bà xấu xí, ế ẩm ở làng Vũ Đại, Thị Nở, còn Mị là cuộc gặp gỡ với A Phủ, kẻ ở gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra.
Trước khi hồi sinh nhân tính, Chí và Mị đều có phẩm chất tốt đẹp, nhưng lại có số phận và bi kịch đau đớn.
Chí Phèo vốn là người nông dân hiền lành, chất phác, chăm chỉ ở thuê cho nhà Bá Kiến. Vì ghen tuông với anh canh điền khỏe mạnh, Bá Kiến đẩy Chí vào tù. Nhà tù thực dân không cải tạo Chí để trở thành con người tốt hơn, trái lại nhào nặn Chí, biến Chí từ một con người hiền lành, lương thiện trở thành kẻ tha hóa. Chí mất nhân hình “Đầu chọc lốc, răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết”, Chí mất cả nhân tính “vừa ở tù về hôm trước, hôm sau Chí đã ngồi uống rượu từ sáng đến chiều”, Chí dọa đốt quán, Chí rạch mặt ăn vạ, Chí trở thành tay sai đắc lực đòi nợ cho Bá Kiến. Trên khuôn mặt Chí “vằn dọc vằn ngang không biết bao nhiêu là sẹo”, sản phẩm của những lần rạch mặt ăn vạ. Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Bi kịch đau đớn nhất của Chí Phèo là “bị từ chối quyền làm người”, bi kịch tha hóa.
Nếu Chí là một canh điền khỏe mạnh, hiền lành, lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, bị từ chối quyền làm người thì Mị cũng từ một thiếu nữ xinh đẹp, có tài, hiếu thảo bị tước đoạt quyền yêu, hạnh phúc. Cha mẹ Mị nghèo, không trả được món nợ từ hồi cưới, Mị trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Làm dâu nhà giàu, nhưng Mị chẳng khác nào kẻ ăn, người ở trong nhà, Mị phải làm việc tối ngày “tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cách tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế“. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen dần với cái khổ, Mị sống “lũi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Vì thế “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tầng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Từ một cô gái xinh đẹp, tài hoa, hồn nhiên, yêu đời khao khát hạnh phúc, Mị trở nên lầm lũi, tâm hồn chai sạn.
Quá trình hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị.
Tưởng như Chí Phèo sẽ sống mãi với kiếp sống của một con quỷ dữ ở làng Vũ Đại, Mị bằng lòng với kiếp sống trâu ngựa trong nhà thống lí, nhưng khi có tác nhân tác động cả hai đã hồi sinh nhân tính.
Sự hồi sinh nhân tính của Chí diễn ra sau đêm gặp gỡ với Thị Nở. Cuộc gặp gỡ giữa Chí với Thị Nở giống như một tia chớp lóe sáng lên trong cuộc đời tăm tối, dài dằng dặc của Chí. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm sống trong những cơn say triền miên, Chí nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống, Chí nhớ lại những ước mơ hết sức bình dị thời trai trẻ, Chí nhận ra mình già rồi mà vẫn còn cô độc, Chí sợ sự cô độc. Không phải ai khác mà chính Thị là người đã đánh thức khả năng sinh vật ở một gã đàn ông như Chí, thức tỉnh nhân tính của Chí. Đặc biệt sự chăm sóc đầy ân tình của Thị đã làm thức dậy khát vọng lương thiện ở người cố nông nghèo khổ. Chí thèm lương thiện, Chí nhận ra rằng Thị Nở cũng có duyên, Chí muốn cùng Thị chung sống, Chí hi vọng Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối đưa Chí trở về với cuộc đời. Đỉnh cao sự hồi sinh nhân tính của Chí là khát vọng lương thiện. Tất nhiên, con đường trở lại làm người lương thiện của Chí đã bị chặn đứng khi chiếc cầu tình thương rút ván, Chí không có cơ hội được trở thành người lương thiện, nhưng khát vọng lương thiện của Chí rất đáng trân trọng!
Sự hồi sinh nhân tính của Mị diễn ra sau cuộc gặp gỡ với A Phủ. Đó là cuộc gặp gỡ của hai con người cùng cảnh ngộ. Mị, con dâu gạt nợ, A Phủ người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Mỹ đã từng muốn chết mà không thể chết, đã từng uống rượu ừng ực từng bát như cố chôn vùi quá khứ đau thương, quên đi thực tại “Rượu tan lực nào. Người về, người đi chơi vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà”, đã từng dửng dưng “A Phủ có là cái xác chết đứng chết đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa”. Thế nhưng trong đêm chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng trên cái cọc ấy, có thể chết đau, chết đói, chết rét, phải chết, chứng kiến sự bất lực của A Phủ, nhân tính của Mị đã hồi sinh “Ta là thân phận đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết”. Nỗi thương người lớn hơn nỗi thương thân đã thúc đẩy Mị hành động quyết liệt, cởi trói cho A Phủ. Rõ ràng khi có tác nhân tác động trực tiếp đến nhận thức, tình cảm của nhân vật, bản tính người sẽ được hồi sinh.
Cả hai nhân vật Chí Phèo và Mị đều có sự hồi sinh nhân tính. Tuy nhiên quá trình hồi sinh của hai nhân vật không giống nhau. Chí được chăm sóc, được yêu thương, Mị lại là người trao tình yêu thương ấy cho A Phủ. Nhờ đó ta thấy cái nhìn nhân đạo của Nam Cao và Tô Hoài. Phải thực sự yêu thương cảm thông với nhân vật của mình, hai nhà văn mới có thể tạo cho nhân vật của mình con đường hồi sinh nhân tính như vậy. Với Chí Phèo là khát vọng trở về với cuộc sống lương thiện, với Mị là hành động mạnh mẽ, quyết liệt, là sức sống tiềm tàng của cô. Thương cảm với người lao động nghèo, Nam Cao, Tô Hoài trân trọng, đồng tình với những ước mơ bình dị của họ. Từ sự hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị, nhà văn đã lên án, tố cáo xã hội phong kiến, thực dân chà đạp lên cuộc đời, số phận của người lao động. Đó là tiếng nói nhân đạo sâu sắc của hai cây bút hiện thực lớn.
Như vậy, viết về quá trình hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị, Nam Cao cũng như Tô Hoài đã chứng tỏ tài năng của hai nhà văn trong việc phản ánh hiện thực đời sống, cũng như sự sáng tạo của mỗi tác giả về đề tài người lao động nghèo.
Nhìn lại hai truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, ta có thể nhận thấy sự hồi sinh nhân tính của hai nhân vật Chí Phèo và Mị. Giá trị của sự hồi sinh nhân tính ấy đã phản ánh tiếng lòng của Nam Cao và Tô Hoài dành cho người lao động. Đó cũng là chiều sâu nhân đạo mới mẻ trong sáng tác của Nam Cao và Tô Hoài.
Chu Thị Hảo