Năm 1974, số bạn trai nhập ngũ lên đường chống giặc ngoại xâm rất đông nên chín lớp 10 của trường cấp 3, thu gọn lại còn bốn lớp. Bạn lính gửi thư về báo tin làm xôn xao cả lớp, Cường vào Binh chủng Tăng thiết giáp, Thọ vào đặc công, Tuấn vào công binh… Những thằng đủ sức khỏe, chờ đủ tuổi là nhập ngũ đợt đầu năm 1975, háo hức được tham gia trận chiến cuối cùng chống giặc ngoại xâm. Dũng viết đơn tình nguyện đi bộ đội nhưng không có cơ may vì chưa đủ tuổi, vì phải ở lại dự thi học sinh giỏi tỉnh, vì ngày hoà bình đã đến. Sau đó anh vào học Đại học Sư phạm trở thành thầy giáo và trở về công tác ở Trường Sư phạm Vĩnh Phú. “Sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa” là bối cảnh nước ta lúc bấy giờ. Cuối năm 1980, Dũng xung phong lên đường chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc cho thoả nguyện vọng, ước mơ từ ngày còn học phổ thông. Thua trời một vạn nhưng không chịu thua bạn một ly, Dũng tự nhủ lòng mình. Dũng quyết tâm phấn đấu trong thời gian quân ngũ trở thành đảng viên, cho bằng những thằng bạn đã nhập ngũ. Dũng cùng đồng đội kiên cường bảo vệ chốt, anh dũng chiến đấu: “Sống bám đá – đánh giặc. Chết hóa đá – bất tử, thành lũy tuổi đôi mươi, giữ yên bờ cõi non sông muôn đời”. Anh bị thương, không đủ sức khỏe đi học sĩ quan nhưng bù lại hơn hai năm phấn đấu được kết nạp vào Đảng. Anh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và xuất ngũ trở về trường. Đảng viên trẻ, trải qua chiến trận, gương mẫu trong giảng dạy, công tác nên anh được Chi bộ Đảng phân công, Đại hội Đoàn tín nhiệm bầu anh giữ chức Bí thư liên chi đoàn thanh niên, khoa Khoa học tự nhiên.
Dũng đọc nhiều lần những dòng chữ ghi trong nhật ký: “…Tôi sẽ đến thăm Đinh Văn Mít, dân tộc Mường, vợ Ngô Thị Hằng, bản Cheo, xã Sơn Trung, huyện Yên Lập, tỉnh Vĩnh Phú”. Mấy năm đã trôi qua, nếu còn sống thì Mít cũng được xuất ngũ trở về gia đình. Không chờ đến hè, chủ nhật Dũng sốt ruột, quyết tâm đi tìm nhà Mít, mặc dù biết đường rất xa, rất khó đi. Khi gà ra khỏi chuồng, Dũng đã cách trường sư phạm hai chục cây số, đạp xe vượt qua dốc Đá Thờ cheo leo, hiểm trở, phía dưới là khe sâu, suối nước ầm ào. Anh đạp xe bon bon đến thị trấn Yên Lập và rẽ vào đường đất gồ ghề, khúc khuỷu, vượt những quả đồi, lượn quanh những sườn núi, rừng cây xanh mướt mắt. Núi đồi trùng điệp nhưng so với núi đá Vị Xuyên, Hà Giang thì quá nhỏ bé, thấp lùn, Dũng xem thường. Xe nhảy chồm chồm, Dũng nhớ đến Mít, nhớ những chuyện xảy ra trên chốt đánh giặc, bảo vệ biên giới Hà Giang, đã mấy năm rồi mà tưởng là hôm qua.
Có một lần, ăn cơm xong, Mít gọi Dũng:
– Anh Dũng ơi! Em nhờ anh một việc.
– Được, việc gì hả em?
Mít chạy nhanh về hầm, là nơi ở của lính trên chốt, mang ra một mảnh giấy nhỏ màu đen, xù xì đưa cho Dũng một cách trịnh trọng. Dũng nhận thấy những dòng chữ khá xấu nhưng rõ ràng. Mít ngập ngừng:
– Anh đọc giúp em… em… lá thư… của vợ… em.
Dũng rất đỗi ngạc nhiên:
– Sao lại nhờ anh đọc thư? Thư của em thì em đọc chứ? Bí mật tình cảm riêng tư mà!
– Em không đọc được ạ. – Mít xoa đầu, vuốt tóc, đỏ mặt tía tai.
– Em bị kém mắt à? – Dũng hỏi thật lòng.
– Không! Khôn… ông!… Em không biết chữ. – Mắt Mít chớp chớp, đỏ hoe, ngượng ngùng, thẹn thùng.
Dũng giật mình, quê anh từ người già đến trẻ đều đọc thông, viết thạo. Nhiều người tốt nghiệp cấp 3, trung cấp, cao đẳng, đại học. Dũng đọc đủ to cho Mít nghe nội dung lá thư. Sau khi hỏi thăm sức khỏe, tình hình công việc của chồng, vợ Mít báo tin vui: “Bò mẹ vừa đẻ một con bê cái, nuôi lớn bán được nhiều tiền hơn bê đực”. Vợ dặn dò: “Anh cố gắng khắc phục khó khăn, vất vả, đừng lo nghĩ nhiều về gia đình nghèo khổ, thiếu thốn, con nhỏ ốm đau… Cuối thư, em chúc anh khỏe, công tác tốt”. Nghe xong, Mít vui vẻ cười… nhưng khuôn mặt vẫn toát lên cái vất vả, khổ cực, hằn rõ thành đường rãnh.
Có đêm đi gác cùng nhau, Mít kể:
– Em mồ côi cả cha lẫn mẹ, không có anh em ruột thịt. Em được một gia đình nhận làm con nuôi, cho ăn no, mặc ấm, đi làm, đi học nhưng lười học nên em không biết đọc và viết con chữ. Năm em 20 tuổi thì được bố mẹ nuôi nhận làm con rể, lấy con gái cả, kém em hai tuổi.
– Em sướng thế, chẳng mất gì mà vẫn có vợ. – Dũng cười, trêu đùa.
– Anh viết giúp em lá thư, gửi vợ em nhé. – Mít đắn đo, ấp úng.
– Chắc mai kia anh mới viết được. – Dũng vui vẻ nhận lời.
– Vâng, vâng, lúc nào xong cũng được.
– Viết về nội dung gì em?
– Anh cứ trêu đùa em. Anh là học sinh giỏi văn, quá thông thạo việc này.
Hôm sau Dũng viết thư giúp Mít. Thật không dễ tí nào, thư của chồng gửi cho vợ. Dũng đành viết: “Em đã biết, anh không biết chữ, phải nhờ anh Dũng đọc thư và viết thư giúp nhưng theo suy nghĩ của anh. Nhận được thư, biết ở nhà mọi việc đều tốt, anh vui. Hiện anh khỏe, nuôi quân phục vụ hơn mười đồng đội trên chốt. Công việc nấu ăn phức tạp vì nấu ở trong hầm, không được để khói bay lên. Những ngày mưa, mùa đông sương mù, rét buốt thấu xương, củi ướt nên nồi cơm, nhiều lần “trên sống, dưới khê, tứ bề nát bét”. Thức ăn thường xuyên là muối trắng, bát canh toàn nước. Cá mắm, cá khô, mắm tôm, thịt lợn xông khói ướp muối mặn chát cũng thi thoảng… Cuối thư, anh chúc em và con mạnh khỏe, trồng lúa, rau màu tốt, nuôi bò lợn chóng lớn”.
Nghe Dũng đọc xong thư, Mít khen:
– Thư hay quá, đúng là thủ trưởng đẹp người, giỏi toán, hay văn và tốt tính.
Sau đó Mít nhờ Dũng dạy con chữ, dạy toán tiểu học. Mít nhiều tuổi, có ý chí, ý thức học tập nên nhanh biết chữ, làm toán, đọc báo và viết thư cho vợ. Mít vui lắm. Hôm ấy bếp bị trúng đạn pháo của địch, Mít bị thương, được cấp cứu kịp thời và chuyển về tuyến sau điều trị.
*
Dũng dừng chân, kính cẩn, cúi đầu trước cổng đền thờ Nguyễn Quang Bích, người thủ lĩnh nghĩa quân, lãnh đạo nhân dân chống Pháp. Bia đá cửa đền khắc những dòng chữ: “Ông sinh năm 1832 vào ngày Phật đản, đức độ, thông minh học giỏi. Ông thi đỗ Hoàng Giáp, sau đó đỗ tiến sĩ. Ông làm Tri phủ Lâm Thao, sau làm chánh xứ sơn phòng kiêm tuần phủ Hưng Hoá (Phú Thọ). Pháp tấn công thành Hưng Hóa thất thủ. Ông cùng quân sĩ rút lên vùng thượng du, tập hợp tướng tài, thủ lĩnh các nghĩa quân, đoàn kết người Kinh, Thái, Mường, Mông… xây dựng căn cứ tiếp tục kháng chiến chống Pháp. Nghĩa quân làm chủ một vùng rộng lớn Phú Thọ, Yên Bái… đánh bại những cuộc tấn công của thực dân Pháp. Năm 1889 ông lâm bệnh nặng và qua đời năm 1890. Để ghi nhớ công lao, nhân dân lập đền thờ ông ở Yên Lập và tại quê nhà Tiền Hải, Thái Bình.
Từ trạm kiểm lâm Sơn Trung, đường vòng vèo như rắn lượn, vắt ngang các sườn núi, gập ghềnh khó đi. Dũng đầm đìa mồ hôi, vác xe qua nhiều con suối nước chảy xiết, dắt xe leo nhiều dốc cao lởm chởm đá, vất vả suýt ngã. Dũng mong mỏi mắt mới gặp được người dân để hỏi thăm nhà Mít: “A lúi, còn xa lắm, còn nhiều “quăng dao” nữa”. Dũng tiếp tục men theo con đường mòn, chui dưới những tán cây xanh rũ rượi, vượt qua nhiều “quăng dao”. Từ xa, Dũng nhìn thấy một người giống như Mít, khập khiễng đi về căn nhà nhỏ, khá lụp xụp. Lúc này là giữa trưa, hai người gặp nhau tay bắt mặt mừng, rất vui. Mít mập, khoẻ hơn trước. Mít mời Dũng vào nhà chơi. Căn nhà ba gian nhỏ hẹp, mái tranh, vách đất. Trong nhà bề bộn bàn, ghế, giường chiếu… đều bé nhỏ, làm bằng tre. Mít rót nước nhân trần mời Dũng, xúc động nói không rõ lời:
– Em không ngờ thủ trưởng đến thăm vợ chồng em… thế mà đến thật.
– Mít gọi tôi là anh thôi, vợ con em đâu?
– Vợ em đi đón cháu ở nhà ngoại sắp về.
Mít vừa dừng lời, vợ Mít cõng con gái chừng bốn, năm tuổi, lếch thếch về nhà, ngỡ ngàng. Thấy Dũng cao to, chững chạc, mặc bộ đồ lính phẳng phiu, nét mặt Hằng hốt hoảng, lo lo. “Ông này đến… lại có chuyện gì xảy ra với Mít rồi. Hay là ngày xưa… Mít vi phạm, nợ nần gì đó?”.
Nghe Mít bảo: “Thủ trưởng Dũng đến thăm gia đình mình”. Khi đó Hằng giảm bớt căng thẳng và nở nụ cười nhẹ nhõm, vui vẻ: “Thật vinh hạnh cho nhà em quá”.
Dũng đưa túi quà cho cháu, nó ngập ngừng nhận, cười vui. Vợ chồng Mít xì xụp nấu ăn trong lán nhỏ, giữa vườn là một lò gạch “dã chiến” vừa đốt xong. Ba con bò chậm rãi nhai rơm, hai con lợn đói bụng réo ầm ĩ xung quanh nhà.
Dũng ngồi trên giường, giáp tường, dành cho Mít ngồi phía ngoài, đi lại thuận lợi. Mít hớn hở mời Dũng ăn cơm. Dũng nhìn vào mâm gỗ sứt mẻ, một bát loa cơm, một đĩa nhỏ đựng ít trứng rán, hơi bị cháy. Đĩa bên là ít tép khô, rang xém cạnh do không có dầu mỡ, một bát canh rau và bát đũa. Vùng quê miền núi nghèo khó, gia đình thiếu thốn, đãi khách như thế này là vợ chồng Mít cố gắng lắm.
Mít bảo:
– Chúng em còn khó khăn thiếu thốn lắm, anh thông cảm.
– Em bảo vợ con cùng ngồi ăn cơm với anh cho vui.
– Thôi, cứ để cho vợ con ăn ở bếp.
Đúng lúc đó, bé gái chạy lên, hập hực: “Con ăn cơm với bố, ứ ăn với mẹ”. Dũng chợt nghĩ, nhà nghèo dành hết cơm và thức ăn đãi khách. Hằng vội chạy đến bế con: “Ngoan nào, mẹ bón cơm cho con”. Dũng nhìn vợ bạn có nét đẹp của gái một con. Dáng người cân đối, vòng mông, vòng ngực nở nang, lao động đã tạo nên eo co đẹp như thế, còn hơn tập thể hình! Nếu Hằng trang điểm phấn son một chút, váy áo tân thời thì hoa khôi chứ chẳng đùa. Ông trời đã cho Mít một người vợ đẹp. Hằng bế con bước ra phía cửa, Dũng vẫn còn ngắm nhìn theo. Hằng thắt đáy lưng ong, khô chân gân mặt là người giỏi giang. Không có rượu, Mít xơi một bát đầy cơm, gắp một tí trứng, mời Dũng:
– Anh ăn tự nhiên nhé, chả có gì thết đãi anh đâu.
Rồi Mít nhanh nhẹn lấy một chiếc bát khác xơi cơm, gắp ít thức ăn mang xuống bếp. Dũng nghĩ: “Mít lấy thêm thức ăn đãi khách”. Đúng vậy. Lát sau, Mít bê lên một bát đầy sắn có dính vài hạt cơm, ngồi ăn ngon lành. Hai người vừa ăn vừa ôn lại những ngày cùng nhau sống chết bảo vệ biên giới. Thỉnh thoảng Mít giục: “Anh ăn mạnh vào”. Dũng nghẹn lòng, cố nuốt hết bát cơm. Mít mời Dũng ăn bát cơm nữa nhưng anh khéo nói với đồng đội: “Anh mệt, không ăn được nữa!”. Thực lòng Dũng muốn dành cơm cho vợ con Mít.
Lúc ngồi uống nước, Hằng bảo:
– Từ thị trấn vào đến bản Cheo, non 30 cây số, đường rất khó đi. Anh tài hỏi thăm đường, lặn lội, vất vả đến thăm chúng em, nói lên tình đồng đội sâu sắc, tình cảm anh em thắm thiết.
– Những năm tháng, anh cùng chồng em và đồng đội giữ chốt, đánh giặc là động lực và kỷ niệm đau thương nhưng quí báu đã thôi thúc gặp nhau.
– Anh viết thư giúp chồng em, ngắn gọn, xúc tích, đủ ý, chữ đẹp, đúng là nét chữ tính người. Anh đã dạy chồng em biết con chữ và làm toán.
Đến bây giờ, Dũng nói thật cho Hằng hiểu:
– Anh viết thư chỉ nói việc Mít làm cấp dưỡng, để em an tâm lao động sản xuất, không lo lắng về cái chết của chồng. Thực tế các anh chiến đấu giữ chốt, cực kỳ khốc liệt, quyết đánh bại những cuộc tấn công của địch. Lũ giặc ngày đêm bắn pháo dữ dội như trút lửa xuống chốt, nóng bỏng như lò vôi. Chúng tấn công chiếm chốt , luồn sâu bắt cóc, giết bộ đội, cướp vũ khí, lương thực, thực phẩm của quân ta… Bộ đội bị thương, hy sinh xảy ra hàng ngày. Chúng ngăn chặn con đường bộ đội ta xuống suối lấy nước, tiếp vận vũ khí, lương thực, thực phẩm. Có những ngày bộ đội đói ăn, khát nước nhưng tay chắc súng, ý chí vững vàng và sẵn sàng chiến đấu đánh giặc bảo vệ biên giới Tổ quốc – Dũng ngập ngừng như khóc.
Mít bổ sung với niềm tự hào:
– Cầm súng đánh giặc là nhiệm vụ của anh, còn nấu cơm chỉ là tranh thủ thời gian lúc chúng nó ngừng tiếng súng. Khi em bị thương về tuyến sau điều trị, anh em giữ chốt sống chết ra sao, anh Dũng?
– Chỉ còn hai anh em mình… đồng đội hi sinh hết… nhưng giữ được chốt đến phút chót… khi có bộ đội tăng cường lên. – Dũng nghẹn ngào, nấc ra từng chữ. Mít ôm chầm lấy Dũng, nức nở.
Hằng xúc động, lệ tràn mi:
– Các anh là bộ đội Cụ Hồ luôn mong muốn người thân, vợ con được sung sướng, sẵn sàng gánh chịu mọi khó khăn, gian khổ và chiến đấu quên mình vì nhân dân, bảo vệ Tổ quốc.
Mít chuyển sang việc gia đình:
– Mấy năm nay chúng em đóng gạch, đốt gạch, nung vôi, lấy gỗ, tre, lá cọ… sang năm nhờ dân bản xây ba gian nhà.
Dũng ngạc nhiên, khen:
– Hai em rất chịu khó lao động, giỏi thật, làm được thế này là anh mừng.
– Nhà em bị thương, chân khập khiễng nhưng sức khỏe tốt, đóng gạch và làm được tất cả mọi việc. – Hằng nhìn Dũng, tự tin nói.
Mít cười toát lên chút tự hào:
– Sống ở rừng, tất cả nhờ vào rừng, chúng em phải bảo vệ rừng.
Dũng nghe Hằng khen chồng, đốt gạch, nung vôi, làm ruộng, nuôi bò… lại còn tham gia nhiều công tác ở bản. Mít tích cực tuyên truyền cho dân bản về đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Mít hướng dẫn một số người trưởng thành tự học con chữ và làm toán. Mít bàn bạc, trao đổi, động viên khuyến khích dân bản lao động sản xuất nhiều lương thực, phát triển chăn nuôi trâu, bò, gà, lợn, đóng gạch, đốt vôi, xây nhà bền vững. Anh có uy tín với dân, được bầu làm đội trưởng sản xuất và Phó Bí thư chi bộ.
Bố Hằng sang chơi, nghe con nói chuyện, khen:
– Cháu Dũng không quản đường xa, khó đi đến thăm đồng đội nghèo khổ. Bạn lính không phân biệt nghề nghiệp, cao thấp, giàu nghèo… Gia đình bác thật là hạnh phúc. Chỉ có những người lính từng tham gia chiến trận, vào sống ra chết mới có tình cảm đặc biệt như vậy, tình yêu người lính. Những người lính cựu chiến binh bản Cheo, có ý chí vươn lên, giàu nghị lực, khó khăn nào cũng vượt qua, tích cực lao động, đoàn kết giúp nhau thoát nghèo và làm giàu. Cảm ơn cháu Dũng đã bảo ban, giúp đỡ Mít biết con chữ, biết làm toán. Cảm ơn quân đội ta đã rèn luyện dạy cho Mít thành người cán bộ tốt của bản Cheo.
– Dạ, bác quá khen, cháu chỉ là một người bạn lính, giúp đồng đội Mít như em ruột thịt của mình.
Chia tay đồng đội, Dũng vừa đi vừa nghĩ mãi về cuộc đời Mít, khâm phục người lính nghèo, hiền lành và may mắn. Ông trời có mắt và thương người đã cho Mít một người vợ tốt và một gia đình đầm ấm. Tuy mồ côi cha mẹ, lúc nhỏ không biết chữ nhưng được quân đội ta rèn luyện Mít từng bước trưởng thành, trở thành một công dân gương mẫu, thành người chồng mẫu mực, người cha tốt, thành người lãnh đạo uy tín của bản Cheo. Nghĩ thế thôi, lòng Dũng đã rưng rưng xúc động…
*
Nhiều năm nay, hai ông thường xuyên qua lại thăm nhau. Nay đến tuổi “xế chiều”, nhờ điện thoại thông minh mà ông Dũng cùng ông Mít thường xuyên nhìn thấy sắc thái sức khỏe của bạn mình. Hàng ngày hào hứng kể cho nhau nghe những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, những thành công và thất bại, những kinh nghiệm trong trồng trọt, chăn nuôi để phát triển kinh tế gia đình. Hai ông hoài niệm, ôn lại những kỷ niệm đẹp ngày xưa, đặc biệt là thời trai trẻ gian khổ, vất vả, sẵn sàng hy sinh chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc.
Ông Dũng mắt ánh lên niềm vui và tràn đầy xúc động. Ông Mít, bà Hằng giờ này tóc trắng bông lau, có cháu, có chắt, lên chức cụ rồi. Dù đường xa, dốc cao, suối sâu, dù tuổi cao sức yếu, vết thương tái phát nặng hơn nhưng ông cùng vợ nhất định đi đến bản Cheo thăm bạn.
Hùng con trai ông Dũng công tác ở Hà Nội, về nhà và đưa bố mẹ đi chơi thăm ông Mít. Ô tô xuất phát khá sớm, chả mấy chốc đã qua dốc Đá Thờ vào thị trấn Yên Lập. Đường đã được mở rộng, thảm nhựa, dễ đi. Xe Hùng tiến về xã Sơn Trung, dọc đường đồi núi nhấp nhô bạt ngàn rừng bạch đàn, rừng keo xanh ngút ngát. Dù có nhiều đổi thay nhưng ông Dũng vẫn nhớ như in con đường vào nhà bạn lính. Xe qua đền thờ cụ Nguyễn Quang Bích, đã được trùng tu khang trang hơn trước. Tới nơi, căn nhà ba gian cũ đã thay đổi thành nhà cao tầng, ông Mít, bà Hằng tay bắt mặt mừng:
– Ông bà có say xe, mệt mỏi không? Đường dễ đi hơn ngày xưa nhưng vẫn còn gập ghềnh xa đấy. Mời ông, bà, cháu vào nhà chơi.
Ông Dũng cười, phô ra cái miệng móm mém:
– Say, có say nhưng say cảnh núi rừng xanh tươi, say hương cây cỏ, say tình say nghĩa. Hề hề.
Nga con gái bà Hằng từ trong nhà ra sân đón khách:
– Cháu chào hai bác. Em chào anh Hùng.
Hùng vào nhà sau, bất ngờ, lúng túng:
– Cháu chào hai bác. Ơ… ơ… Em… ở đây à?
– Nó công tác ở Hà Nội, về nhà hôm qua, bảo là, mai có gia đình bạn trai vào chơi… Không ngờ… – Ông Mít cười trong khóe mắt.
Hùng mạnh dạn hơn:
– Dạ. Cháu có ý định, nhân dịp này… hỏi bác Mít về nhà bạn gái… không ngờ… Cháu và Nga biết nhau từ ngày đi học thạc sĩ, bây giờ ngỏ lời kết duyên, hôm nay ra mắt hai bên gia đình ạ.
– Bản Cheo cứ nhỏ to, con Nga mải mê làm ăn, chăm chỉ, ham mê học tập, khéo mà ế chồng. – Bà Hằng mi mắt đọng sương.
– Hùng vùi đầu vào học, không đoái hoài, ngỏ nghê việc vợ con! Làng xóm cho là kén vợ… Nhưng hai gia đình mình đã hiểu nhau, môn đăng hộ đối, ông bà nhỉ. – Vợ ông Dũng gật đầu lia lịa.
– Ngày xưa, vợ chồng em học được ít con chữ, thiệt thòi, bây giờ em nuôi các con ăn học, cứ học, học đến khi nào không học được nữa thì thôi. – Ông Mít có chút bùi ngùi, ôn lại thời xa xưa.
Ông Dũng thể hiện bản chất nhà giáo, luôn trân trọng tri thức:
– Thời đại 4.0 ngày nào không học là tụt hậu, hiện anh em mình vẫn phải học, dù có thêm chút ít kiến thức về chính trị, văn hóa, sức khỏe, dinh dưỡng, môi trường… nhưng là tấm gương sáng cho con cháu noi theo.
Căn nhà như rộng hơn bởi những người bạn lâu ngày gặp nhau trong không khí ngập tràn hạnh phúc của đôi bạn trẻ. Những đứa con được sinh ra trong thời kỳ gian khổ, vất vả, thiếu thốn nhưng vững bước đi lên, quyết tâm học tập và yêu thương nhau, vươn tới chân trời mới.
Ông Dũng nhớ nhất, nhớ như in lần đầu tiên đến thăm gia đình Mít, với bao khó khăn, thiếu thốn nhưng ngập tràn những kỷ niệm ấm áp tình người:
– Hôm nay vợ chồng mình cùng con đến thăm gia đình bạn, mong được ăn bát cơm độn sắn, trứng rán, tép rang cháy cạnh. Hề, hề…
Cả nhà cười vui vẻ, bây giờ sắn tươi, tép tôm là đặc sản đắt tiền. Bạn lính ôn lại câu chuyện ngày xưa gian khổ, xông pha chiến trận, sống chết bên nhau, sẵn sàng hi sinh đánh giặc giữ chốt, bảo vệ biên giới Tổ quốc. Đôi bạn lính sắp thành thông gia và người thân yêu trong một gia đình. Hai người lính già cười thoải mái như hai chàng trai trẻ, sung sức tràn đầy yêu thương và mãi mãi là bạn lính.
Truyện ngắn của Đặng Văn Hương