Địa đạo Vịnh Mốc thuộc thôn Vịnh Mốc, xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị là một công trình biểu tượng của lòng dũng cảm, ý chí quật cường của quân dân Vĩnh Linh trong cuộc chiến tranh chống lại kẻ thù lớn của dân tộc là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Đây là vùng đất có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, huyện Vĩnh Linh từng là đầu cầu giới tuyến giữa hai miền Nam – Bắc sau khi đất nước tạm thời bị chia cắt. Hơn nửa triệu tấn bom đạn đã thả xuống hòng huỷ diệt khu vực giới tuyến đặc biệt quan trọng – Vĩ tuyến 17. Vịnh Mốc được mệnh danh là lũy thép, trong chiến tranh đây chính là nơi tập kết quân lực, vũ khí, hàng hóa chi viện cho bờ Nam và tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ. Huyện Vĩnh Linh được ví như một “Tọa độ chết”, là mục tiêu của máy bay ném bom và các loại đạn pháo được bắn lên từ những chiến hạm ngoài biển. Gian khổ là vậy, cùng cực là vậy nhưng người dân Vĩnh Linh dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ kính yêu đã không hề run sợ trước bom rơi đạn nổ, một lòng làm Cách mạng đến cùng, quyết tâm giải phóng nhân dân, gìn giữ chủ quyền dân tộc.

Để đối phó với các loại vũ khí, khí tài tối tân của kẻ địch, nhân dân Vĩnh Linh với phương châm “Một tấc không đi, một li không rời, mỗi làng, xã là một pháo đài”, thông qua chỉ thị của khu ủy Vĩnh Linh, Đồn trưởng Đồn Công an vũ trang nhân dân 140 Lê Xuân Vy đã chỉ huy đơn vị và nhân dân địa phương nhanh chóng tiến hành đào địa đạo. Địa đạo này được đào ở vùng đất đỏ bazan, bắt đầu triển khai từ đầu năm 1965 và được hoàn thành vào giữa tháng 02 năm 1966. Điều đặc biệt vào thời điểm lúc bấy giờ, vị chỉ huy công trình Lê Xuân Vy học vấn mới vừa hết tiểu học và ông chỉ có chiếc La bàn cũ kỹ là dụng cụ hiện đại nhất trong tay tổ chức cho mọi người tiến hành đào địa đạo. Hệ thống làng hầm – địa đạo đã ra đời và phát triển khắp vùng, thuộc nhiều xã của huyện Vĩnh Linh, trong đó, địa đạo Vịnh Mốc tiêu biểu nhất. Địa đạo có độ sâu từ 10 – 23m, trải rộng trên diện tích hơn 7ha. Hệ thống đường hầm cấu trúc hình vòm, gồm nhiều nhánh thông nhau qua trục chính dài 780m với 13 cửa thông ra ngoài, trong đó 7 cửa thông ra biển, 6 cửa thông lên đồi, mỗi cửa được thiết kế như một lỗ thông hơi. Địa đạo gồm 3 tầng có độ sâu và chức năng khác nhau. Tầng 1 dùng để cơ động chiến đấu và trú ẩn tạm thời. Tầng 2 là nơi sống và sinh hoạt của dân làng. Tầng 3 là nơi tránh bom, đồng thời trung chuyển hàng hoá, vũ khí xuống thuyền ra đảo Cồn Cỏ. Địa đạo Vịnh Mốc được thiết kế như một ngôi làng dưới mặt đất, dọc hai bên đường hầm được khoét sâu 1,8m và rộng 0,8m là những căn hộ gia đình, mỗi căn hộ đủ chỗ cho 3 – 4 người ở. Ngoài ra, trong đường hầm còn có hội trường với sức chứa hơn 50 người dùng làm nơi hội họp, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim; 3 giếng nước sinh hoạt; kho gạo; bếp Hoàng Cầm; trạm gác; trạm đặt máy điện thoại; bệnh xá và phòng phẫu thuật, nhà hộ sinh, nhà tắm… Gần 2.000 ngày đêm sống trong lòng địa đạo, toàn xã Vĩnh Thạch không hề tổn thất bất cứ một người nào, hơn thế, những người phụ nữ kiên cường nơi đầu sóng ngọn gió này ngày ngày vừa lao động sản xuất, vừa chiến đấu bảo vệ làng xã mà vẫn cho ra đời 63 em bé – 63 công dân sinh ra trong cuộc chiến, sinh ra trong địa đạo.Từ tận cùng của sự hủy diệt ấy, bằng sức người và ý chí bản năng, người dân Vĩnh Thạch đã làm nên những kỳ tích của thế kỷ 20 như một bản hùng ca xuyên suốt mọi thời đại. Cư dân địa đạo đã tồn tại suốt nhiều năm trong lòng đất với đầy đủ khái niệm của cuộc sống như học hành, vui chơi, giải trí, yêu thương, sinh nở… đủ nói lên giá trị nhân văn và để lại bao rung cảm sâu sắc về một cuộc chiến tranh không cân xứng về sức mạnh quân sự song vẫn thua ý chí kiên trung của mỗi con người bé nhỏ mà trong trái tim họ luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt bởi tình yêu Tổ quốc, bởi niềm tin về tự do luôn chói ngời trong tâm thức.
Vịnh Mốc đã được công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt, là một trong những điểm đến hấp dẫn trong tuyến du lịch DMZ (khu vực phi quân sự), ngày càng thu hút đông đảo khách tham quan đến với nơi này. Trong khuôn viên di tích, ngoài hệ thống địa đạo chui sâu trong lòng đất như đã kể trên, còn có nhà bảo tàng lưu giữ, trưng bày các hiện vật, chứng tích chiến tranh, trong đó có bức tranh nổi tiếng “Tobe or not tobe” (Tồn tại hay không tồn tại) và những gì đã diễn ra dưới lòng đất suốt những năm tháng lịch sử hào hùng ấy là câu trả lời sâu sắc nhất cho sự tồn tại của một dân tộc bé nhỏ trước một cường quốc chiến tranh lớn. Trên sân bảo tàng, bên cạnh những lũy tre xanh rợp bóng mát vẫn còn đó những quả bom, những viên đạn pháo đủ các kích cỡ đang nằm ủ rũ, uể oải trước những bước đi khoan thai, đầy tự hào của hàng vạn lượt khách tham quan địa đạo.
Bằng lời thuyết minh giọng Quảng Trị nằng nặng mà ấm áp, truyền cảm, anh Phan Trường Định – Trưởng Ban quản lý Khu di tích địa đạo Vịnh Mốc đã đưa du khách tham quan trở lại những ngày này của hơn 50 năm về trước, từ khi những nhát choòng, nhát cuốc đầu tiên bổ xuống đất này, mở màn cho chiến dịch đào hầm sâu trong lòng đất, tạo nên hệ thống địa đạo, làng hầm đầy kỳ tích. Từ nơi đây, những chủ trương, quyết sách, chiến lược chiến tranh đã được ban hành, mệnh lệnh thời chiến được phục tùng nghiêm túc. Cuộc sống dưới lòng đất vẫn diễn ra nhộn nhịp, tiếng hát, nụ cười cùng tiếng trẻ bi bô học bài vẫn vang lên đây đó. Cũng qua lời thuyết minh của mình, Phan Trường Định đã truyền cảm hứng cho du khách, trong đó có rất nhiều người nước ngoài, kể cả cựu binh Mỹ những niềm xúc cảm rưng rưng. Vịnh Mốc trở thành huyền thoại không chỉ bởi sức sống mãnh liệt của quân và dân ta dưới lòng địa đạo mà còn là một trong những công trình kiến trúc độc đáo được sinh ra từ lòng yêu nước dũng cảm của biết bao thế hệ người dân Vĩnh Linh hun đúc và tạo dựng.
Trong dòng người trở lại địa đạo Vịnh Mốc hôm nay, Thượng tá Lê Phước Sơn – nguyên Chủ nhiệm Chính trị Lữ đoàn 384, Binh đoàn 12 Bộ đội Trường Sơn – một người con của xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Linh không giấu nổi niềm tự hào về truyền thống Cách mạng của quê hương mình. Chính anh và gia đình anh khi xưa từng sinh sống trong hầm địa đạo Vĩnh Hòa nối gần tới địa đạo Vịnh Mốc, từng chứng kiến hàng loạt máy bay địch bổ nhào, trải bom lên mảnh đất quê hương anh. Anh Sơn cho biết: Ngày ấy, chiến tranh khốc liệt, từng giờ, từng phút Vĩnh Linh hứng chịu không biết bao nhiêu trận bom và pháo kích vào làng quê yêu dấu. Tính ra, bình quân, mỗi người dân Vĩnh Linh gánh trên mình 7 tấn bom đạn Mỹ. Vậy nhưng những vũ khí tối tân mang tính hủy diệt tàn bạo ấy không thể làm lung lay ý chí, tinh thần của người Vĩnh Linh nói chung và nhân dân các xã Vĩnh Hòa, Vĩnh Thạch nói riêng. 63 đứa trẻ sinh ra giữa lòng địa đạo như một minh chứng hùng hồn về sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhiều thế hệ quả cảm tiếp theo, luôn bám đất, bám làng, bám biển gìn giữ chủ quyền, bảo vệ sự sống cho mỗi nhà, mỗi người. Mang theo tinh thần thép ấy, Lê Phước Sơn gia nhập quân đội, rèn luyện và phấn đấu để trở thành một sĩ quan chỉ huy có bề dày cống hiến trong lực lượng vũ trang. Trong những bài giảng chính trị của mình, anh luôn đề cao những giá trị truyền thống, giá trị nhân bản đúc kết từ cuộc chiến tranh trên quê hương anh để các thế hệ cán bộ, chiến sĩ sau anh tiếp tục phát huy, giữ gìn và làm cho nó mãi mãi tỏa sáng.
Cũng là người con quê hương kiên cường Vĩnh Linh, các chị Trần Thị Hoài Thương, Trần Thị Hoài Mến, Trần Thị Hoài Thắm được sinh ra trong một gia đình Cách mạng ở sát biển Cửa Tùng. Hai chị Thương và Mến lớn hơn nên được cha mẹ cho sung vào lực lượng dân quân tuyến lửa Quảng Trị, trực tiếp tham gia chiến đấu và sản xuất, phục vụ chiến đấu bảo vệ cầu Hiền Lương, bảo vệ hệ thống địa đạo, bảo vệ bờ Bắc sông Bến Hải. Tuổi trẻ xông pha trận mạc, cả hai chị đều mang trên mình những vết thương do bom đạn Mỹ gây ra. Còn người em út, Trần Thị Hoài Thắm, do yếu sức khỏe nên không tham gia lực lượng dân quân được, chị chọn nghề giáo để nối tiếp giấc mơ dang dở của hai chị gái mình. Là cô giáo dạy văn ở trường THCS Đinh Tiên Hoàng – ngôi trường nằm sát cầu Hiền Lương huyền thoại thuộc xã Vĩnh Thành, Trần Thị Hoài Thắm luôn giáo dục cho các thế hệ học trò của mình về truyền thống Cách mạng của quê hương, về những hy sinh, mất mát của cha ông để làm nên chiến thắng. Giá trị của chiến thắng, giá trị của tự do được chị truyền giảng với thái độ trân trọng quá khứ, trân trọng lịch sử, làm cho các em hiểu sâu, hiểu kỹ hơn về những gì cha ông các em đã trải qua, đã tạo dựng cho hôm nay các em được tung tăng cắp sách đến trường trong tâm thế của người thắng cuộc. Chị Hoài Thắm bùi ngùi nhắc lại kỷ niệm thời cha mẹ và những người thân của chị sống trong địa đạo, ăn khoai mì mà luôn chắc tay cày tay súng, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ để sinh tồn. Hòa bình lập lại, mỗi lần đưa học trò đến thăm địa đạo, mắt chị lại nhòe nước, giọng chị lại lạc đi khi bàn tay mình chạm vào vách đất địa đạo, khi chị nhớ lại ngách hầm nhỏ nơi lần lượt hai chị gái Hoài Thương, Hoài Mến của mình trúng đạn phải nằm trị thương; nhớ lại tiếng điếu cày của cha rít lên trong đêm tối mênh mông giữa lòng địa đạo khi ông nghĩ cách ngày mai làm sao lùa đàn trâu vào sâu trong rú cho chúng ăn cỏ mà tránh được bom đạn kẻ thù. Mỗi lần như thế, Hoài Thắm càng nung nấu hơn việc phải tiếp tục truyền lửa cho tụi học trò về ý nghĩa cũng như giá trị của sự sống. Giá trị đó không gì khác hơn, chính là khát vọng sống, khát vọng làm người với đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của từ đó!
Vịnh Mốc hôm nay, Vĩnh Linh hôm nay xanh màu no ấm, cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, nhưng không bao giờ quên ký ức một thời đạn bom, một thời hào hùng. Chứng tích chiến tranh còn đó, ngay trong lòng đất này, vẫn và mãi là địa chỉ đỏ về sự trường tồn của dân tộc. Nhiều lần đến với nơi đây, được xem lại từng thước phim thời chiến chiếu trong bảo tàng, được gặp lại những công dân Vĩnh Linh xưa còn đến bây giờ và trò chuyện với những kỷ vật chiến tranh năm nào, họa sĩ Võ Xuân Huy đã thể hiện thành công ý tưởng trình diễn triển lãm nghệ thuật thị giác mang tên “Xuống đất gặp trời” ngay trong lòng địa đạo Vịnh Mốc. Xuống đất gặp trời, vầng mặt trời luôn tỏa sáng trong lòng đất ấy chính là ánh sáng của Đảng soi đường cho quân dân Vĩnh Linh làm Cách mạng giải phóng quê hương. “Nơi hầm tối là nơi sáng nhất, nơi con tìm ra sức mạnh Việt Nam…” – ánh sáng ấy còn là vầng hào quang tỏa ra từ những trái tim anh dũng, từ tinh thần quả cảm bất chấp mưa bom bão đạn mà mỗi người dân Quảng Trị luôn luôn tự hào, kiêu hãnh!
VKL