Mới chớm thu, tiết trời ở vùng Tây Nguyên đã se se lạnh. Huy lững thững dạo quanh mấy con phố. Không biết từ bao giờ người ta đặt tên cho nơi đây là “Xứ sở của ngàn hoa” . Thật không uổng. Nơi nào cũng có hoa. Hoa vắt vẻo trên ban công các biệt thự, các nhà cao tầng, hoa rực rỡ trong công viên, hoa trải dài trên bờ hồ, hoa tràn ra cả ven đường. Đặc biệt là vườn hoa trung tâm thành phố hàng trăm thứ hoa khoe đủ màu sặc sỡ. Có những tên hoa nghe rất lãng mạn: mi mô za, vi ô lét, tuy líp, ti gôn… và còn có cả những cây anh đào, những cành ô liu phất phơ trong gió. Nhưng có điều Huy thấy lạ một loài hoa đặc trưng cho vùng cao nguyên, nhất là những thành phố từ thời Pháp xây dựng ngày xưa thường vẫn có. Thế mà ở đây bây giờ vắng bóng!
Huy rẽ sang con hẻm nhỏ mong sẽ tìm được thứ hoa đó nhưng vô vọng. Cảm thấy buồn và trống trải vô cùng, anh quay về khách sạn đến ngồi trên chiếc ghế đá đặt dưới một gốc thông già. Anh mơ màng buông tầm mắt qua màn sương mỏng ngắm bóng hoàng hôn đang chìm dần về phía hồ Than Thở. “Chú ơi! Chú nghĩ gì vậy?”. Huy như tỉnh cơn mơ. Trước mặt anh một cô gái trẻ, mặc bên ngoài áo sơ mi trắng là chiếc gi-lê mầu xanh nước biển bó sát lấy người, làm nổi bật những đường cong mềm mại duyên dáng. Huy ngỡ ngàng chưa kịp trả lời, cô gái mỉm cười nói tiếp “Ghế có ai ngồi chưa ạ? Cháu ngồi được không chú?”. Huy ngập ngừng: “Có, à mà không. Được chứ, cháu ngồi xuống đi!”
Vài phút lặng lẽ trôi qua, Huy chủ động gợi chuyện: “Cháu làm công việc gì? Nhà có gần đây không?”. Cô gái trả lời nhỏ nhẹ: “Dạ, chú không nhận ra rồi. Cháu ở ban lễ tân của khách sạn này. Cháu vẫn thường gặp chú”. “Vậy à? Chú vô tình quá, xin lỗi cháu!”. Cô gái cười hiền: “Không đâu, cháu mới là người phải xin lỗi chú. Vì từ hôm chú đến nghỉ ở khách sạn, cháu đã để ý, hình như chú có tâm sự gì thì phải! Tìm người thân? Hay một thứ gì quý giá?”
Ngồi xoay người lại nhìn thẳng vào cô gái, Huy giật mình hình như có một luồng điện chạy dọc theo sống lưng: “Ôi… Đôi mắt như biết nói, với đôi mi cong dài đẹp làm sao! Cách đây gần hai mươi năm cũng đôi mắt đẹp đến nao lòng như thế đã để lại cho mình nỗi day dứt không nguôi…”.
Đêm hôm đó, trời đã vào khuya. Thành phố trở nên yên tĩnh, hình như tất cả đang chìm sâu trong giấc ngủ. Riêng Huy vẫn thao thức. Đôi mắt trong sáng với hai hàng mi cong dài của cô gái lễ tân gặp ban chiều cứ ám ảnh tâm trí anh và đôi mắt ấy đã kéo anh trở lại với quá khứ một thời…
Ngày ấy ở cái tuổi “ăn không biết no, lo chưa đến” Huy và Dung học cùng trường cấp hai cho đến hết cấp ba. Nhà Dung ở làng bên không xa lắm, mỗi khi đi học đều phải đi qua làng Huy. Không hiểu nguyên cớ vì đâu bạn học rất nhiều con gái khá xinh, Huy không hề rung động. Nhưng riêng với Dung, nhất là khi bắt gặp “đôi mắt biết nói” với làn mi cong dài của Dung thì tim Huy đập dồn dập…!
Những năm học cấp ba, kể ra lực học Huy có phần trội hơn Dung nhưng đôi khi lấy cớ tìm gặp Dung để hỏi bài. Điều này có lẽ Dung cũng hiểu. Nếu cứ bình thường như thế thì chẳng có gì đáng nói. Nhưng đến năm cuối cấp có một đối tượng thứ ba chen vào. Đó là một chàng trai trông thật hào hoa, trắng trẻo, đôi môi mỏng, nói năng dễ nghe. Cậu ta học lớp khác có một cái tên rất ngộ: Nguyễn Trạch Nùng. Từ hôm Nùng xen vào, Huy cảm thấy mình như bị lép vế. Tuy nhiên trong lòng thì căm lắm. Mỗi khi thấy cậu ta tán tỉnh, lả lơi với Dung máu trong tim Huy sôi lên, muốn tống cho cậu ta mấy quả. Song Huy nghĩ làm thế không được! Huy sợ bạn bè chê cười, sợ nhà trường kỷ luật, hơn nữa sắp đến kỳ thi tốt nghiệp rồi. Vả lại Dung đã là gì của Huy đâu!
Có một lần tan học Dung chờ Huy, hai người vừa đi vừa trò chuyện. Bất thình lình Nùng từ đâu chạy đến sấn sổ kéo tay rồi ôm lấy vai Dung, hấp tấp nói “Em… Anh tìm em mãi”. Ngay lúc đó Huy thấy trời đất như chao đảo, máu ở hai thái dương chạy giần giật. Huy đẩy mạnh Nùng ra và quát “Cậu làm gì vậy? Sao lại thiếu văn hóa thế!”. Nùng đỏ mặt, vùng vằng, giơ nắm đấm. Thấy vậy Dung rất nhanh đứng vào giữa dang tay chắn hai đối thủ, sẵng giọng “Thôi đi! Các anh có thôi đi không nào!” rồi quay sang phía Nùng “Xin lỗi, từ nay cậu đừng làm thế nữa, khó coi lắm. Thôi đi đi!”. Thấy vậy mấy đứa bạn đi sau chạy xúm lại. Khi hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện, chúng nó phá lên cười và một bạn gái nào đó giọng chì chiết: “Đúng là Nguyễn Trạch Nùng”. Có bạn đồng minh, Huy bình tĩnh lại không nói gì. Còn Nùng mặt đỏ gay rẽ sang lối khác nhưng cố vớt vát một câu chống chế “Được, bọn mày hãy chờ đấy”.
Kể từ hôm xảy ra sự việc không đâu ấy cho tới hết năm học, Nguyễn Trạch Nùng không kiếm cớ tìm gặp Dung và cũng không gây rắc rối gì nữa. Còn Huy giữ một khoảng cách nhất định, giữ kín tình cảm của mình không thổ lộ với ai. Đến khi thi xong đại học, chưa biết kết quả ra sao thì Huy là một trong những thanh niên có tên trong danh sách nhập ngũ. Trước hai ngày lên đường, Huy chủ động tìm và nói với Dung “Tối nay mình muốn gặp riêng… chia tay với Dung được không? Dung đồng ý nhé!”.
Đêm vào khuya, trăng rằm rất sáng. Hai người ngồi trên một vạt cỏ bên bờ sông Bứa. Dòng nước lặng lẽ trôi. Phía xa, có mấy quầng sáng nhỏ ánh lên từ những chiếc đèn chai của người đi kiếm cá và thỉnh thoảng vẳng lại tiếng mái chèo khua nước va vào mạn thuyền lịch kịch rồi tan vào tĩnh lặng. Huy gợi chuyện:
– Dung ơi! Ngày kia mình lên đường rồi mà kết quả thi đại học vẫn chưa biết. Không hiểu rồi đây sẽ ra sao?
– Anh Huy ạ (lần đầu Dung gọi Huy là anh) đất nước có chiến tranh. Còn tuổi thanh niên kẻ đi trước, người đi sau. Bao giờ yên hàn quay về lại học tiếp, chỉ sợ mình không có chí.
– Mình cũng nghĩ thế. Nhưng thật lòng mà nói ngoài chiến trường hòn tên mũi đạn biết thế nào…
Dung đưa tay ngăn Huy lại “Không được nói dại, anh nhớ bài thơ “Đợi anh về” của Xi-mô-nốp chứ?”.
– Nhớ, mình nhớ. Nhưng nhớ nhất cái buổi đứng với Dung ở cổng làng. Chẳng biết nói gì cứ ngắt những bông hoa vô tội vò nát. Những bông hoa cúc dại màu vàng tươi, có mùi thơm hăng hắc nhưng thật quyến rũ.
Hai người không nói gì thêm. Huy cầm tay rồi kéo nhẹ Dung vào lòng. Giây phút đầu tiên, một cảm giác rất lạ… hương thơm từ da thịt của người con gái làm cho anh ngây ngất! Cái cảm giác tuyệt vời của tình yêu đầu đời ấy theo anh suốt thời gian trong quân ngũ.
Xong đợt tập luyện, anh theo đơn vị vào chiến trường biên giới Tây Nam. Ở ngoài mặt trận không ai có thể nói trước được điều gì. Sau thời gian giáp mặt với địch, một lần Huy đã bị thương nặng và cũng từ đó anh không biết tin tức gì về Dung nữa.
*
Qua một đêm ít ngủ, Huy thấy rất mệt mỏi nhưng tâm trí lại lóe lên tia hy vọng… biết đâu lần nghỉ ở Đà Lạt này sẽ tìm lại được kỷ niệm xưa đã hằn sâu trong ký ức! Nghĩ vậy, anh đi tìm cô gái lễ tân. Vừa gặp, cô gái vui vẻ hỏi “Chú ơi, đêm qua chú ngủ có ngon không ạ?”. Huy không trả lời vào câu hỏi mà nói “Ở thành phố ngàn hoa này, đã hai ngày nay chú để ý mãi mà không thấy có hoa cúc dại?”. Cô gái tươi cười “Cúc dại còn có tên gọi là Dã quỳ phải không chú? Ở đây ngày trước nhiều lắm nhưng bây giờ người ta phá bỏ để trồng các thứ hoa khác, còn lại rất ít mọc ở những chỗ đất hoang dại”. Huy vội vàng nói “Vậy thì may quá! Cháu làm ơn chỉ cho chú biết nơi nào có?”. Vừa nói cô gái vừa xếp gọn mấy quyển sổ trên mặt bàn “Ở quãng đường đi Liên Khương, đường đi Thung Lũng Vàng và quanh vùng hồ Tuyền Lâm còn có nhiều nhưng xa lắm. Thôi thế này chú nhé, chờ cháu giao ca xong cháu sẽ đi cùng với chú”.
Khoảng nửa giờ sau ra khỏi khách sạn, Huy thấy một chiếc xe ngựa đã đợi sẵn ngoài cổng. Cô gái bảo “Đường ở đây nhiều dốc lắm, ta đi xe này cho tiện chú ạ!”.
Ngồi yên chỗ, thấy bác xà ích vui tính Huy gợi chuyện “Bác ơi, có lẽ bác cũng đến tuổi nghỉ ngơi rồi. Sao lại còn chạy xe đón khách?”. Bác xà ích cười rất thoải mái “Ờ… đúng vậy, con cháu tôi cũng bảo thế. Tôi đã nghỉ được một thời gian rồi nhưng ở nhà chẳng biết làm gì buồn lắm. Mà có lẽ do cái nghiệp và duyên số của tôi nó gắn liền với con bạch mã này. Hơn nữa tôi nghĩ ở một thành phố cao nguyên yên bình mà thiếu âm thanh của chiếc xe thổ mộ vọng trong đêm thì tiếc lắm nên tôi cố níu kéo lấy nó. Có vậy thôi!
Chiếc xe lăn bánh trên con đường rải đá “lọc cọc” nghe đều đều bỗng nhiên dừng lại. Bác xà ích bảo “Tới rồi, anh và cháu xuống đi!”. Xuống khỏi xe, cô gái nói với bác xà ích “Khoảng bốn giờ chiều, bác đến đón chúng cháu về khách sạn nhé!”. Sau đó cô gái dẫn Huy đi theo con đường mòn đất đỏ. Hai bên đường cỏ mọc xanh mướt, thỉnh thoảng có điểm một khóm hoa giấy màu trắng, màu hồng. Đi được một quãng chừng vài chục mét, Huy nghe thấy có tiếng chim hót, tiếng gió thổi rì rào trên các tán cây. Một cảnh tượng hiện ra: nhà nọ cách nhà kia khá xa, cửa chính trông theo các hướng khác nhau, có lẽ là do thế đất. Huy đang đắm mình trong khung cảnh thanh bình của làng quê thì cô gái bảo “Đến nơi rồi chú ạ! Vào nhà cháu nghỉ. Chiều cháu sẽ đưa chú đi tìm…”. Huy rất ngạc nhiên và khó hiểu. Cô gái nói tiếp “Mời chú vào nhà, mẹ cháu chắc ở đâu đó để cháu đi gọi”.
Huy ngồi xuống ghế và quan sát. Ngôi nhà gạch ba gian lợp ngói đỏ, tường quét vôi trắng. Đồ đạc không có gì sang trọng nhưng thứ gì cũng sạch sẽ. Gian giữa kê một chiếc bàn, trên mặt bàn có một chiếc ảnh thờ. Người trong ảnh cỡ tuổi trung niên vẻ mặt thanh tú. Chỉ vài phút sau cô gái trở vào nhanh nhẹn pha trà:
– Cháu mời chú uống nước, mẹ cháu làm ngoài vườn vào ngay bây giờ đấy ạ!
– Này, mẹ cháu chắc là người tính nết cẩn thận lắm nhỉ?
– Vâng, mẹ cháu rất ngăn nắp. Kìa, mẹ cháu đã vào. Mẹ ơi! Chú đây cũng là người miền Bắc đang nghỉ ở khách sạn con làm.
Chủ nhà và khách đối diện nhau. Huy nhận ra ngay là Dung nhưng còn ngập ngừng chưa biết chào hỏi thế nào thì Dung đã lên tiếng giọng hơi thảng thốt “Anh Huy! Có phải anh Huy không?”. “Đúng, Huy đây. Thật không ngờ có ngày gặp lại”. Cô con gái thấy vậy, miệng lẩm bẩm “Thì ra hai người đã quen nhau” rồi quay sang phía mẹ “Bây giờ mẹ và chú nói chuyện, con đi thổi cơm đây”.
Ngắm kỹ Huy một lượt, Dung khẽ nói nửa có vẻ trách, nửa như thanh minh:
– Làm sao tự nhiên lại bẵng đi không có tin tức gì cho em? Anh tệ quá!
– Chuyện thì dài lắm, mình chỉ kể ngắn gọn Dung nghe…
Giọng anh trầm hẳn xuống nhưng rành rõ ”Sau buổi chia tay với Dung cho đến khi luyện tập xong, mình theo đơn vị vào mặt trận biên giới Tây Nam và ở tổ trinh sát. Suốt thời gian đó, tổ của mình hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Nhưng có một lần sơ ý, chủ quan nên bị rơi vào ổ phục kích của địch. Hai đồng đội hy sinh tại chỗ, còn mình rút chạy được một quãng thì bị một viên đạn găm vào sau gáy thế là ngất xỉu. Không biết bao lâu mới tỉnh lại. Giữa cái sống và cái chết, mình đã gắng sức lần mò trong đêm tối theo hướng có tiếng gà gáy từ một buôn làng nào đó… cho đến lúc kiệt sức và ngã gục chẳng còn biết gì nữa. Có lẽ số mình chưa hết nên ngay hôm sau người dân địa phương đi rừng bắt gặp, họ đã đem về chạy chữa. Sau một thời gian dài thuốc thang, vết thương khỏi hẳn. Nhưng tai ác là bị mất trí nhớ! Chẳng còn biết mình là ai, quê quán ở đâu? Vậy là từ đó sống chung với gia đình người đã cứu mình, hàng ngày cùng đi làm nương rẫy với họ. Năm tháng qua đi, được sự đùm bọc thương yêu của mọi người, trí nhớ của mình dần dần hồi phục rồi bản năng của người đàn ông cũng dần thức dậy. Hàng ngày lại gần gũi với H’Linh, người con gái Tây Nguyên hiền dịu đã chăm sóc mình. Ban đầu mình coi người đó chỉ là một ân nhân. Nhưng rồi từ tình thương đồng loại nảy sinh tình cảm và dần dần dẫn đến tình yêu. Thế là mình và H’Linh thành vợ, thành chồng. Hai năm sau sinh được thằng cu kháu khỉnh, hay ăn chóng lớn. Đến năm nó lên bốn tuổi, một hôm ra chơi ở vườn sau, chẳng may bị rắn độc cắn. Khi người lớn biết thì không cứu được nữa. Còn H’Linh thương con cứ lầm lũi, người gày rộc hẳn đi. Đến cuối năm đó H’Linh bị một cơn sốt rét ác tính rồi qua đời. Mình thương mẹ con H’Linh lắm nhưng chẳng biết làm sao được, đành lấy công việc nương rẫy làm khuây. Chờ đến ngày làm lễ bỏ mả cho mẹ con cô ấy xong thì mình thu xếp về quê…
Về đến địa phương, may mà huyện đội người ta còn giữ đầy đủ giấy tờ gốc. Sau khi xem xét họ bố trí cho mình làm phụ ở bộ phận lưu trữ hồ sơ. Cho đến thời gian gần đây vì sức khỏe, mình xin nghỉ theo chế độ và bây giờ vẫn độc thân. Đấy chuyện mình là thế! Còn Dung, do hoàn cảnh nào đã vào đây?“.
Dung nhìn Huy với ánh mắt đằm thắm: “Anh Huy ạ! Đường đời của em có phần đơn giản hơn nhưng cũng đau lắm. Sau thời gian học ở Viện quân y ra, người ta điều em và hai đứa bạn nữa tăng cường cho một bệnh xá vùng Tây Nguyên này để đón tiếp các thương binh từ nơi tuyến lửa về. Tuy nhiên không lâu, chỉ hơn một năm sau các mặt trận phía Tây Nam ngừng bắn, bệnh xá tiền phương giảm bớt quân số. Em xin chuyển sang bệnh viện của một huyện thuộc tỉnh Lâm Đồng. Em nuôi hy vọng sẽ gặp lại anh. Song sự thật thì không thể vì anh vẫn bặt vô âm tín. Đến năm gần ba mươi tuổi em mới xây dựng gia đình với anh Tiến quê ở Quảng Trị, làm ở ngành địa chất. Anh ấy vào đây điều tra quy hoạch về tài nguyên và thổ nhưỡng. Thời kỳ đó tuy đã ngừng chiến nhưng ở phía biên giới còn rất phức tạp. Một lần tổ của anh Tiến đi khảo sát thuộc vùng núi Voi, chẳng may bị nạn. Đến nay thi hài các anh vẫn không tìm thấy. Anh Tiến chỉ để lại cho em đứa con gái, đó là cháu Hằng. Thời kỳ đầu em hụt hẫng, buồn đau vô cùng. Nhưng không còn cách nào khác vì cuộc sống xô đẩy, vì tương lai của con, em đành giải tỏa bằng cách lao vào công việc. Bây giờ em nghỉ hưu rồi, chờ thời điểm thích hợp cũng về quê hương thôi…”. Huy vội hỏi:
– Hai mẹ con định về quê nào?
Dung chậm rãi nói tiếp:
– Em hiểu ý anh! Gia đình cha mẹ, anh em ruột thịt của bố cháu Hằng đã mất hết rồi. Em sẽ đưa cháu về quê miền Bắc. Tuy nhiên em còn có chút băn khoăn: cháu Hằng nó làm ở ngành du lịch không biết ở ngoài đó có xin được việc không? Nhưng thôi, em đã quyết rồi “bấc đến đâu, dầu đến đấy anh ạ!”.
Chuyện trò với mẹ con Dung, Huy có cảm giác như ở gia đình mình. Sau bữa cơm và nghỉ buổi trưa, Hằng (cô gái lễ tân) đưa anh đi thăm mấy trang trại của những người trồng hoa và cây cảnh trong buôn làng.
– Cháu Hằng này, ở đây nhiều thứ hoa lạ đẹp quá nhưng chú vẫn không thấy có hoa Dã quỳ?
– Vâng. Chú cứ yên tâm. Cháu hứa… rồi chú sẽ đạt được nguyện vọng.
Trời đã ngả sang chiều. Hai chú cháu trở về, vừa vào đến nhà Hằng nói với mẹ: “Mẹ ơi! Mẹ dẫn chú Huy ra thăm vườn nhà mình, thăm những thứ hoa mà mẹ trồng ấy. Con phải đi chuẩn bị mấy thứ để còn về khách sạn nhận ca trực cho kịp”. Dung nhìn con gái cười rồi nói: “Con bé này khéo tính toán nhỉ. Nào anh Huy đi theo em!”.
Vườn nhà Dung không rộng lắm. Những luống rau xanh non, những luống hoa màu sắc tươi thắm. Tới một góc vườn, sau rặng xoài Huy ngỡ ngàng thấy mấy khóm hoa Dã quỳ được chăm sóc cẩn thận! Huy xúc động thật sự và thầm nghĩ: “Có lẽ Dung vẫn còn nhớ những kỷ niệm xưa nên mới giữ lại và chăm sóc loài hoa cúc dại này!”.
*
Khi trở về phòng riêng ở khách sạn, Huy chuẩn bị hành lý để sáng hôm sau ra ga đúng giờ tàu chạy ra Bắc. Anh lấy tờ báo bọc lại cẩn thận gói hạt giống hoa và nghĩ tới lời Dung dặn: “Anh hãy đem hạt hoa Thạch thảo lẫn Dã quỳ này gieo ở quê hương mình. Khi nào hoa nở thì chắc chắn em sẽ trở về!”. Huy mỉm cười, hy vọng một ngày không xa hai mảnh ghép cuộc đời của Huy và Dung sẽ được ghép lại trọn vẹn để chăm lo cho những đứa con hạnh phúc được sống trong một xã hội tốt đẹp và đầy lòng nhân ái.
Truyện ngắn dự thi của Nguyễn Viết Lệ