Đinh Thế Anh, Triệu Đức Huệ, Cù Xuân Tuế và tôi là Hà Quang Biểu, người cùng xóm Đồng, làng Văn Nhân. Thuở nhỏ chúng tôi cùng là bạn chăn trâu trên cánh đồng Trò ven bờ đê sông Hồng. Thế Anh tuổi Tý tuổi con chuột hơn tôi một tuổi, Huệ và Tuế với tôi cùng tuổi Sửu, tuổi con trâu. Như thế, chúng tôi cùng trà lứa, lúc nhỏ cùng học lớp i tờ ở lán nhỏ làm giữa xóm Miếu, sau cùng học cấp I, cấp II ở xã và cấp III ở huyện, nên vẫn xưng hô “mày – tao”, chỉ khi có vợ con thì thôi không xưng hô “mày – tao”. Học xong lớp 10, tôi được cử vào học Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, năm 1971 đi bộ đội, năm 1976 trở về trường học tiếp và ra trường làm nghề dạy học, được sinh viên, học viên và phụ huynh gọi là thầy, nên việc xưng hô “mày – tao” chẳng bao giờ dùng nữa.
Nhớ một buổi chiều chăn trâu trên đồng Trò cùng bủ Dần. Bủ có tài xem tướng mạo, bủ bảo chúng tôi lớn lên đều khá cả, có học, có tài sau trở thành đốc học, ông lãnh, ông tri phủ, tri huyện, có đứa tiến bộ còn làm quan tổng đốc, ông quan triều. Ngày đó, bọn trẻ mới lớn, sống ở nông thôn nên cũng chẳng biết làm ông tổng đốc, ông đốc học, ông lãnh, ông tri phủ, tri huyện, làm quan triều là thế nào, chỉ biết cười vui. Bủ Dần nói tiếp trong số các cháu, có cháu Thế Anh khá hơn cả, làm đến quan triều. Cháu Xuân Tuế thì làm quan tổng đốc, cháu Đức Huệ làm quan tri huyện còn cháu Quang Biểu làm nhà giáo sau làm ông đốc học. Các cháu đều phải trải qua một thời chinh chiến, thời nhiễu loạn, phải cận thận kẻo sa vào vòng lao lý đấy.
Thế Anh cười to nhất, nói:
– Như thế là chúng cháu đều khá hơn bố mẹ, ông bà. Cháu mà làm đến ông quan triều, cháu phải làm đường cái quan vào tận xóm, tận làng. Xây lại đình chùa miều mạo cho khá hơn làng khác. Mỗi lần cháu từ Hà Nội, Huế, Sài Gòn về cháu sẽ mua quà cho cả làng, thắp hương tưởng nhớ bủ Dần…
– Thế còn cháu Huệ, cháu Tuế, cháu Biểu thì thế nào?
– Chúng cháu sẽ cũng làm như Thế Anh ạ.
Tôi còn bảo Bủ Dần coi xem số cho thằng Chính, thằng Lương, thằng Vượng, thằng Đào, thằng Hoà, thằng Châu, thằng Ích… xem chúng nó mai sau ra sao?
Bủ Dần nhìn các cháu, nói:
– Chúng nó đều là người giời cả, đất nước được nhờ, nhưng bố mẹ, dân làng thì chẳng còn trông thấy dáng hình đâu nữa…
Thằng Chính như muốn hỏi xem người giời là người thế nào? Bủ Dần sợ nói cho các cháu biết điều không hay ảnh hưởng đến tâm tư của các cháu nên bủ nói tránh:
– Người giời là người bất tử. Mai đây các cháu làm nên sự nghiệp lớn lao lắm…
Nghe bủ Dần nói thì biết vậy, cũng chẳng để tâm làm gì, chúng tôi lại vô tư chia nhau ra đánh trận giả trên cánh đồng Trò, hoặc làm những cuộc bơi thi qua ngòi Cỏ.
Thế Anh nhiều tuổi nên đứng ra chỉ huy, tôi còn nhớ như in những cuộc trận giả hoặc bơi thi. Trận giả thì chia ra quân đỏ, quân xanh với số người hai bên bằng nhau. Mỗi bên chiếm cứ một phía, bên quân xanh dựa vào những bờ ruộng, bờ ngòi, bờ mương mà giấu quân. Còn bên quân đỏ thì dựa vào những ụ đất, những mồ mả, bụi chuối, lùm cây mà ém quân. Trận chiến bên thắng là phát hiện ra từng đối phương mà bắn “tiêu diệt”. Bên nào bị hết quân là thua, bên nào còn quân là thắng. Thế Anh chỉ huy ở bên xanh hay bên đỏ đều thắng. Tôi còn nhớ một trận vừa mới về vị trí ẩn nấp đã bị một viên đất ném trúng lưng. Như thế là tôi đã bị “tiêu diệt” rồi, không còn chỉ huy quân được nữa. Dần dần quân của tôi đều “bị chết” vì bị địch ném trúng. Lối đánh thần tốc của quân Thế Anh khiến tôi nhớ mãi.
Việc bơi thi qua ngòi Cỏ thì về nhất vẫn là tôi và Thế Anh. Tôi và Thế Anh bơi sải rất tốt, loáng một cái đã bơi sang bờ ngòi và còn quay lại bơi nhiều vòng nữa. Trong khi đó bọn trẻ con trong làng mới lớn chỉ bơi được một hai vòng. Có lẽ vì hai chúng tôi lớn tuổi hơn, thân mình cao lớn hơn mà thôi, chờ vài năm nữa bọn trẻ làng lớn lên chúng sẽ bơi tài. Tôi và Thế Anh chắc chả địch được chúng nó đâu, những đứa con vùng sông nước này đều bơi giỏi cả. Buổi chiều chúng tôi phi trâu về nhà, còn tập trung úp nơm, săn cá chòi (cá chuối) đứa nào đứa ấy làm một xâu cá dài mang về cho bố mẹ nấu nướng cùng gia đình ăn cơm.
Buổi tối, chúng tôi tập trung ở đình làng học hát và hát vang những bài hát cách mạng. Anh Tiến, chị Hương phụ trách, cho tập hát những bài “Tiến quân ca”, “Chiến thắng Điện Biên”, “Trường ca sông Lô”, “Làng tôi”, “Giải phóng miền Nam”, “Tiến về Sài Gòn” và rất nhiều bài hát cách mạng, thi thoảng có đứa còn hát những bài gọi là “nhạc vàng”, bị anh Tiến, chị Hương cấm không được hát vì nó làm yếu đuối tinh thần con người.
Hồi ấy, đi học chỉ phải đóng một ít học phí mỗi tháng 2 đồng. Khoẻ và tài như bọn trẻ chúng tôi thì chỉ vài buổi úp cá bán đi là có đủ tiền góp học phí cả năm. Đến khi tốt nghiệp cấp II, cấp III thì vào học trung cấp hay đại học thì được Nhà nước nuôi, con trai đi học còn được 18 đồng, con gái được 20 đồng trợ cấp đủ ăn uống trong trường, gia đình chỉ phải chi vài đồng cho con mua kem đánh răng, quần áo hoặc tiền đi đường. Điều kiện như thế, chúng tôi mới được đi học và phát triển lên làm người nọ người kia có địa vị, học vị. Nhưng chúng tôi đều phải trải qua một thời chiến tranh chống Mỹ rất ác liệt, nhiều đứa làng tôi đã phải hy sinh ngoài mặt trận, nhiều đứa mất chỉ có giấy báo tử ghi là đã “hy sinh ở mặt trận phía Nam” còn hài cốt chưa biết ở đâu. Những đứa trẻ mà bủ Dần xem bảo chúng là người giời bất tử thì chúng đều hy sinh cho dân tộc cả. Nhiều lần trở về thăm quê, vào nghĩa trang liệt sỹ viếng, tôi vẫn đứng nghiêm trước mộ phần các bạn, vô cùng nhớ thương từng đứa mà bủ Dần đã báo trước khi xem tướng số cho chúng. Khi vào nghĩa địa của làng, tôi không quên thắp hương cho bủ Dần, ơn bủ đã báo cho biết số phận của cuộc đời mình.
Tôi lớn lên đi học và đi chiến đấu đều gặp may. Tôi không bị thương và cũng không bị nhiễm chất độc dioxin. Học xong Đại học Tổng hợp tôi được giữ lại trường làm Bí thư Đoàn thanh niên sau được đi làm nghiên cứu sinh tại Liên Xô, có học vị phó tiến sỹ và tiến sỹ, về nước làm Phó Hiệu trưởng Trường Đại học, như thế tôi đã là ông “đốc học” rồi. Về đường vợ con cũng được, vợ tôi cùng làm giảng viên có học vị tiến sỹ và cùng tôi được phong phó giáo sư một lần. Chúng tôi có hai con trai thông minh học giỏi, đứa được cử đi Mỹ và đứa được cử đi Pháp học tập sau ra trường đều làm việc ở các trường, các viện nghiên cứu nổi tiếng ở Paris, ở New York. Tôi vẫn nhớ lời bủ Dần bảo là phải cẩn thận kẻo sa vào vòng lao lý, nên phải chú ý khâu quản lý tiền bạc của nhà trường, dẫu phải sống bần nhưng thanh, không để mang tiếng đến danh dự của một nhà giáo, một người đảng viên đã nguyện hy sinh tất cả vì nước vì dân, vì sự nghiệp cách mạng.
Người may mắn tiến bộ nhất là Thế Anh, vào học Trường Đại học Kinh tế – Kế hoạch, năm thứ ba thì vào bộ đội. Chiến đấu ở Mặt trận Quảng Trị, lập được chiến công lớn, được thưởng hai Huân chương Chiến công, được phong cấp thượng uý, làm cán bộ Tiểu đoàn trưởng. Sau này ra quân, Thế Anh lại về học tiếp, tốt nghiệp ra trường được phân công về làm việc tại một Bộ hẳn hoi. Con đường thăng tiến rất nhanh chẳng mấy chốc Thế Anh đã là vị Cục trưởng có uy tín, được cấp trên chú ý đưa vào nguồn đào tạo làm cán bộ cấp chiến lược.
Tôi nhớ một lần Thế Anh sang Liên Xô đến thăm tôi, thời tôi vừa bảo vệ xong luận án phó tiến sỹ, đề tài được đánh giá xuất sắc nên được giữ lại làm luận án tiến sỹ. Thế Anh khéo nhắc nhở tôi:
– Quang Biểu bảo vệ xong đề tài tiến sỹ thì về nước nhé! Cậu nên mở rộng mối quan hệ để còn phát triển lên. Người như cậu hoàn toàn có điều kiện đấy.
Tôi nghe và hồn nhiên trả lời:
– Cái số tôi không được như anh, chắc chỉ làm đến ông “đốc học” là cùng. Nên mình phải cố gắng đến chuyên môn nghiệp vụ làm tốt đến công tác đào tạo sinh viên.
Thế Anh cười:
– Nhân định thắng thiên kia mà, cậu không nên tin vào số mệnh quá nhé. Người tài như cậu bây giờ rất hiếm, cậu mà có mối quan hệ tốt nữa, chắc cái chức thứ trưởng, bộ trưởng cũng sẽ nằm trong tay đấy.
– Cảm ơn anh đến thăm, chỉ đường! Về nước công tác sẽ tính sau, nhưng mình thích làm chuyên môn hơn làm quản lý, đi lại nhiều, họp hành nhiều sẽ làm cho mình mỏi mệt hơn.
Thế Anh khẽ gật đầu, hỏi thăm chuyện quê nhà:
– Làng ta chưa có đường nhựa, trời mưa thì lầy lội, trời nằng thì bụi lầm, đình chùa miếu mạo đã bị phá hết rồi còn gì?
Nhớ lại lời của Thế Anh trước đây hứa với bủ Dần:
– Chắc là vẫn phải chờ Thế Anh làm ông quan triều trở về làng ta xây đắp đấy!
Thế Anh lắc đầu:
– Chưa có thể làm được, phải nhờ vào đầu tư, vào sức dân. Nước mình đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, năng động hơn trước nhưng phải có thời gian đổi mới. Cậu vẫn tin vào số mệnh gớm, còn tớ thì chẳng tin lắm. Sự nghiệp là do con người tạo lập nên, mình phải cố gắng định đoạt lấy. Anh em ta mà không tự mình thì làm gì có ngày đổi đời như hôm nay.
Không dám tranh luận với bạn, sợ bạn không thích thêm phiền. Chỉ khẽ gật đầu, nói như để phô chuyện:
– Hai cậu Đức Huệ và Xuân Tuế cũng tiến nhanh. Cậu Đức Huệ đã làm đến chức Phó Chủ tịch huyện, còn cậu Xuân Tuế làm đến chức Trưởng ty Công an một tỉnh ở miền Trung, như thế đã làm đến ông “tri huyện” ông “lãnh binh” rồi còn gì. Bạn Thế Anh cố gắng làm đến ông quan triều, thì nhớ đến giúp đỡ bọn chúng tôi mới nhé!
Thế Anh cười vui, nói:
– Quang Biểu là nhà khoa học mà vẫn biết cái luật lệ: nhất thân, nhì quen, tam quyền, tứ chế…
– Thì ai chẳng biết thế, mọi cái luật lệ bất thành văn đã có từ trước rồi, người ta vẫn theo đó mà làm. Còn cái luật mới của ta, có cái thực hiện được và còn nhiều cái thì không, lại phải sửa. Chỉ sợ có cái không thể sửa sai được nữa thì nguy lắm! – Tôi nói như để thanh minh cho mình.
Thế Anh nói như khuyên nhủ:
– Mình thì cứ trông vào người cấp trên làm thế nào thì mình làm theo thế ấy, Quang Biểu đừng suy nghĩ nhiều cho mệt óc nhé!
Hai năm sau, tôi bảo vệ thành công luận án tiến sỹ về nước được chuyển đổi thành tiến sỹ khoa học, tôi được Nhà nước phong hàm giáo sư. Làm hiệu phó, tôi càng quan tâm đến nghiên cứu khoa học, học thêm tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, để còn có điều kiện giao lưu, viết bài cho các tạp chí khoa học quốc tế và đi thỉnh giảng tại các trường đại học nước ngoài theo chuyên môn của mình.
Thời gian ấy, tôi được nhà trường cấp đất làm nhà, vợ chồng tôi phải dốc hết vốn liếng ra làm ngôi nhà riêng, không phải ở ký túc xá chật hẹp của nhà trường nữa. Tôi cũng thấy đỡ vất vả hơn trước rất nhiều, càng quan tâm đến công tác hướng dẫn học viên cao học và học viên nghiên cứu sinh làm luận văn thạc sỹ, tiến sỹ.
Khi đó, Thế Anh đến thăm vợ chồng tôi và căn nhà mới vừa làm. Vợ tôi rất vui được bạn từ thuở chăn trâu với chồng mình tới thăm. Lúc ấy bạn tôi vừa được làm Bộ trưởng một Bộ thì niềm vui vô cùng lớn, làm cho vợ chồng tôi được thơm lây. Trong bữa cơm tại nhà, tôi nhắc lại lời bủ Dần nói rằng Thế Anh sau này làm đến ông quan triều. Bây giờ làm đến chức Bộ trưởng như vậy là quan thượng thư của triều đình rồi.
Tôi nói lại thấy Thế Anh không vui, biết là người trong cuộc không thích, còn có điều gì chưa vừa ý chăng, nên tôi không nhắc lại nữa. Chuyện về làm đường về làng chẳng phải nhờ đến Thế Anh vì muốn cho kinh tế nông thôn phát triển Nhà nước phải đầu tư vào làm đường trước. Con đường vào các xã, đi tới các huyện dần dần được làm xong, đường điện được kéo về tận làng, tận xóm, tận nhà. Đêm đêm điện thắp sáng trưng, loa đài, ti vi mọi nhà đều có cả. Còn việc làm đình miếu, đền, chùa thì dân tự góp công góp tiền tu sửa và làm mới chẳng phải nhờ vả một ai. Chẳng biết Thế Anh về thăm làng và có lần nào cung tiến tiền cho việc tu tạo di tích văn hoá làng thì tôi không dám hỏi. Vì nhiều người làng về giúp hàng chục triệu đồng làm các công trình văn hoá của làng có yêu cầu không được nhắc và ghi tên, chắc họ còn phải lo giữ mình.
Người làng còn cử ra những người có uy tín, giỏi vận động, về tận Hà Nội và các tỉnh, thành phố có con cháu dân làng làm việc để quyên tiền. Những lần như thế, tôi phải đón tiếp tử tế khi người làng đến nhà và lần nào cũng phải cung tiến đôi triệu và về nhà thì góp mươi triệu cho làng. Nhiều ngôi đình, đền, miếu, chùa mất cả tên các nhân thần, mất hoành phi, câu đối, thần phả, thần tích tôi nhớ được bảo mọi người làm lại được như cũ. Người làng vẫn tự hào về tôi. Có hội hè đình đám gì là họ gọi điện mời về, tôi cũng phải thu xếp công việc của mình về làng tham gia như đứa con của dân làng. Tôi thường nghĩ Thế Anh, Xuân Tuế, Đức Huệ và con cháu làng Văn Nhân khác đi công tác đều làm như tôi, có điều kiện hơn tôi chắc đóng góp cho làng nhiều hơn. Khi về làng thấy đình đền miếu chùa được tôn tạo khang trang hơn trước, tôi mừng thầm. Những ngày lễ tế, ngày cúng chùa, đình, miếu, đền và các ngày Tết tôi thường có lễ, cúng cáo cẩn thận. Khi về tôi bảo người trông coi hạ lễ chia cho mọi người trong làng coi như phần quà của tôi.
Đức Huệ học hết cấp III, vào bộ đôi nhưng được ở miền Bắc làm lính phòng không. Học xong Đại học Sư phạm về công tác tại trường cấp III huyện nhà. Mấy năm sau cậu chuyển sang làm công tác tuyên giáo, trúng cử vào Hội đồng nhân dân huyện và được bầu giữ chức Phó Chủ tịch huyện. Chỉ vài khoá nữa, chắc chắn Đức Huệ sẽ giữ chức Chủ tịch huyện, ngang với chức tri huyện xưa rồi. Lời của bủ Dần nói về số phận của Đức Huệ quả không sai. Bạn ấy thường về chơi với Thế Anh nhờ cậy mọi việc. Tôi đoán bạn Huệ có cầu rồi, chẳng mấy chốc sẽ làm ông quan phủ, quan tỉnh chứ không chỉ làm ông quan tri huyện bình thường.
Đức Huệ ít nói, thỉnh thoảng gặp nhau, cậu ấy không nhắc gì tới những kỷ niệm thời chăn trâu, thời đi học. Nên tôi cũng không nói lại làm gì, tin chắc bạn ấy vẫn nhớ chứ quên làm sao được. Đức Huệ cứ khen tôi và Thế Anh học giỏi, công tác tốt, có danh tiếng, chắc chắn còn tiến bộ nhiều. Tôi thì khen bạn mình có tài chuyển nghề từ một thầy giáo dạy văn mà sang làm tuyên giáo, lại có uy tín được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện là tài đức rồi. Mong bạn cố gắng để tiến bộ hơn, làm được nhiều cái mới cho quê hương của mình
Xuân Tuế học hết cấp III đi bộ đội vào chiến trường Liên khu 5. Sau giải phóng thì về tiếp quản một tỉnh miền Trung làm cán bộ ngành công an tại đó. Xuân Tuế lấy vợ và có nhà ở đàng hoàng từ khi ấy, con cái đủ đầy. Bố vợ là quan chức cao cấp của thành phố, nên con đường thăng tiến của Xuân Tuế rất nhanh, chẳng mấy chốc đã làm Phó Trưởng ty và Trưởng ty công an của thành phố.
Xuân Tuế không nhớ gì tới cái thuở chăn trâu trên đồng Trò, bận công tác lại có gia đình vợ con ở miền Trung nên ít về quê. Xuân Tuế có ba đứa em thì đã đưa cả ba đứa vào làm việc ở miền Trung. Xuân Tuế đi bộ đội, nay công tác ở xa ít trở lại thăm làng. Mỗi lần ra Hà Nội Xuân Tuế thường đến thăm tôi và Thế Anh. Gặp Xuân Tuế, tôi nói là cậu đã làm đến chức ông đề, ông lãnh binh rồi, phải cố gắng để trở thành ông tổng đốc nhé.
Tôi nói đến thế, chỉ thấy bạn mình cười không bàn luận gì. Tôi lại càng chắc chắn rằng Xuân Tuế đã quên chuyện cũ. Tôi có nhắc đến bủ Dần, cậu ấy chỉ nhớ cái bủ gầy gò thường đi chăn trâu cùng, chứ không nhớ chuyện bủ chỉ ra số phận của từng đứa, trong đó có Xuân Tuế. Biết vậy, tôi không nhắc lại chuyện ngày xưa nữa, chuyển sang nói chuyện thời nay.
Về sau khi Xuân Tuế đã về nghỉ hưu thì bị kỷ luật cách tất cả các chức vụ, vì vi phạm quy chế dân chủ, bán đất đai gây thiệt hại lớn cho ngân quỹ của Nhà nước. Tai họa đến do bản thân bạn không giữ được tư cách, phẩm chất người cán bộ, đảng viên, tự chuyển biến, tự chuyển hoá dẫn đến sa sút, làm mất đi bản chất tốt đẹp, tự nhuộm đen con người mình.
Trước đây, bạn Đức Huệ đang làm Phó Chủ tịch huyện xin sang làm Giám đốc xuất khẩu tỉnh. Được như thế là nhờ bạn chí cốt Thế Anh giúp đỡ, khi cái nghề công chức cấp huyện chẳng có thu nhập gì thêm. Đức Huệ chuyển sang làm Giám đốc xuất khẩu tỉnh thu về nhiều tiền đã mua đất, mua nhà ở Hà Nội cho vợ con ở. Do thiếu kinh nghiệm về quản lý tài chính, lại chi tiêu bừa bãi nên chỉ vài năm sau làm cho doanh nghiệp bị phá sản, nợ hàng chục tỷ tiền thuế VAT, không có tiền nộp. Đức Huệ bị cách chức và bị xử lý hình sự phải ra hầu toà lĩnh án 20 năm tù giam.
Tôi cứ thương Đức Huệ là người hiền lành chất phác mà bỗng chốc bị lĩnh án tù. Cái lý do chính là không giữ được tư cách, phẩm chất đã bị đồng tiền tha hoá làm mất đi biết bao công lao của mình. Mỗi lần về quê tôi tự tìm hiểu căn nguyên gốc rễ để bạn Đức Huệ bị phạt đến 20 năm tù giam, vẫn là do yếu kém về khả năng quản lý tiền bạc, một lĩnh vực kinh tế mà bạn không được đào tạo. Một lần vào dự đám cưới của đứa cháu trong xóm Mía, làng Văn Nhân thì gặp cậu Minh làm quản giáo trại giam. Tôi gạn hỏi Minh:
– Cậu có biết mối quan hệ của Đức Huệ với Thế Anh là gì?
– Thưa chú, đó chỉ là mối quan hệ về tiền bạc thôi ạ.
Còn Thế Anh hiện giờ bị bệnh xuất huyết não. Về sau Thế Anh bị án kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng và cách tất cả chức vụ. Khi Thế Anh bị bệnh nặng tôi đã đến thăm và khi bị tàn tật tôi cũng thường đến thăm. Có nhiều lần Thế Anh không nhận ra tôi, có lần Thế Anh nhận được thì ôm lấy tôi khóc nức nở. Thế Anh chỉ muốn cùng tôi và bạn bè trở lại cái thời đi chăn trâu trên đồng Trò, chứ không muốn trở lại cái thời làm quan như mấy năm trước. Lần mới đây tới thăm, tôi kể chuyện cho Thế Anh nghe về bạn Đức Huệ bị xử phạt 20 năm tù giam, nay thụ án hơn mười năm chưa được tha về. Thế Anh ôm mặt khóc to và bỗng lăn đùng ra sàn nhà ngất lịm. Tôi phải cùng vợ con Thế Anh vội ôm và bế người bệnh nặng đưa vào giường nằm. Tôi chờ bạn Thế Anh tỉnh hẳn mới trở về nhà. Lòng buồn rười rượi, nhưng vẫn cứ mong có một ngày vào miền Trung tới thăm Xuân Tuế.
Lại nghĩ tới bủ Dần có tài xem tướng mạo, bủ đã chỉ ra số phận cho từng đứa trẻ. Nay đã hơn 60 năm nhìn lại thấy lời của bủ chỉ ra rất đúng với mấy đứa bạn chăn trâu cùng trà lứa với mình. Tôi cho rằng bủ Dần có tài xem tướng mạo, nhưng bủ còn có khả năng vô thức nên đã chỉ ra đường sự nghiệp, công danh và những trắc trở cuối đời của từng đứa. Đời người có số phận thực, con người phải nên có nhận thức đúng đắn về vận mệnh, địa vị của riêng mình, hướng cuộc đời mình về những chân trời cao đẹp, bình yên mà đi, chớ nên nhắm mắt bước liều. Các bạn của tôi đã không nhớ đến kết cục không hay của cuộc đời, không biết giữ mình trong sạch đã vướng vào kỷ luật và vòng lao lý. Thật tiếc thay!
Truyện ngắn dự thi của TRIỆU HỒNG