ĐỖ VĂN TỪ
Đọc thơ Nguyên tiêu
Nguyên tiêu, con đọc thơ Người
Lòng thêm vằng vặc rạng ngời trang thơ
Bồi hồi cứ ngỡ như mơ
Đầy thuyền trăng, với Bác Hồ – Nguyên tiêu
Thuyền êm, lấp lóa mái chèo
“Luận bàn quân sự” trăng theo bóng Người
Ung dung con thấy Bác ngồi
Sáng hơn trăng sáng giữa trời Nguyên tiêu
Gập ghềnh việc nước bao nhiêu
Ai hay? Chỉ thấy trăng theo: thuyền về!
Đ.V.T
NGUYỄN KHẮC BÌNH
Đảng với mùa xuân
Đất nước qua bao gian lao khó nhọc
Để có mùa xuân hạnh phúc hôm nay
Bao máu xương anh hùng tiên liệt
Đã hiến dâng cho mảnh đất này
Biết ơn những người con trung hiếu
Mang về cho Tổ quốc mùa xuân
Sống mãi cùng quê hương xứ sở
Sáng lung linh như ngọc trong ngần
Trên ngả đường đất nước vào xuân
Màu cờ Đảng thắm tươi rạng rỡ
Đất trời giao hòa ngàn hoa đua nở
Và lòng người phơi phới niềm tin
Mùa xuân về nhớ Bác kính yêu
Nguyện đi theo con đường Đảng Bác Hồ đã chọn
Khát vọng vươn lên một tầm cao mới
Nhóm nhen từ những mùa xuân
Có Đảng Bác dẫn đường.
N.K.B
NGUYỄN HƯNG HẢI
Kìa em, xuân về
Cành đào trổ búp rồi em
Lá non hai chiếc vừa lên mặt trời
Rập rờn bươm bướm có đôi
Kìa em, lấm tấm mưa rơi nụ đào
Kìa em áo mắc cành rào
Khẽ thôi kẻo lại gai cào, anh đau
Khẽ thôi kẻo vấp vào nhau
Vấp là xuân sẽ ở đâu ùa về
Khẽ thôi nụ biếc đang xòe
Hoa đào chưa có gì che đầu cành
Khẽ thôi xuân thắm để dành
Gió trời thổi nhẹ nên cành chưa rung
Khẽ thôi kẻo hết ngập ngừng
Kìa em lửa bắt đầu bùng trời xanh
Kìa em đỏ khắp đầu cành
Nụ đào chúm chím sắp thành quả non
Kìa em nắm lấy tua còn
Khẽ thôi kẻo đứt trăng tròn, khẽ thôi…
N.H.H
Nguyễn Hoa
Khi trong tôi có Mặt trời
Khi trong tôi có Mặt trời
Tôi thành hạt muối ngàn khơi lên bờ
Đỏ tươi màu ấm lá cờ
Hồng cầu của máu, câu thơ của đời
Khi trong tôi có Mặt trời
Tôi thành con của bao người mẹ thương
Bước chân vấp ngã trên đường
Mẹ ru bằng cả tình thương của người
Khi trong tôi có Mặt trời
Tôi thành đồng đội bao người thân yêu
Trải qua nắng sớm, mưa chiều
Áo bền màu lá tình yêu cuộc đời
Khi trong tôi có Mặt trời…
N.H
Nguyễn Đình Xán
Chí Đám mùa xuân này
Mùa xuân này ở Chí Đám càng vui (1)
Xuân ở lòng dân, xuân của đất trời
Đất bưởi bao đời nay đổi khác
Nghèo đói bị đẩy lùi, giàu có lên ngôi!…
Cũng đất đai này một thời gian khổ
Mưa xách dép, khoác áo tơi
Nắng thì bụi đỏ nhìn không rõ người
Quanh năm lam lũ đói no nhờ trời…
Nay bê tông hóa đường tỏa khắp nơi
Ô tô tấp nập nối liền ngược xuôi
Cây bưởi lên ngôi dân thành triệu phú
Nhà nhà ngói đỏ như hoa vùng đồi!…
Này công, này của người thay sức trời
Xây nông thôn mới cuộc sống đổi đời
Đảng vạch con đường: Tam nông bền vững(2)
Giã từ nghèo đói, ấm no suốt đời!…
N.Đ.X
(1) Chí Đám: Xã nông thôn mới đầu tiên ở Đoan Hùng. Diện tích trồng bưởi là: 400ha, 40ha đã cho thu hoạch thu nhập khoảng 20 tỷ đồng.
(2) Nghị quyết số 26/NQ/TW về Tam nông (nông nghiệp, nông dân và nông thôn).
NGUYÊN HÀ
Giếng làng
Cũng từ cái “rốn rồng vàng”
Cuống nhau thai nghén ra làng thuở xưa
Giếng làng bên cạnh đồng chua
Mà văn vắt ngọt chẳng thua suối nguồn
Giếng làng nặng nghĩa hai thôn
Uống chung mạch nước vui buồn có nhau
Thôn này rể, thôn kia dâu
Gái trai vấp sợi dây gàu cũng nên
Một ngày nhà máy mọc lên
Mạch ngầm ngộ độc asen thấm vào
Lặng trong phong tỏa tường bao
Giếng làng nhớ cảnh ồn ào đã qua
Đợi người không thấy người ra
Mặc lòng nắng rọi, mây sa mời chào
Giếng làng thiêm thiếp chiêm bao
Trong mơ vọng tiếng gàu chao dội về.
N.H
VŨ KIM LIÊN
Ngày sang đông
Ước gì có ai đó
Lót lá cho em nằm
Như bài thơ anh viết
Cho một người khác em
Thì cứ ước để xem
Ngày sang đông năm ấy
Có lạnh hơn bây giờ
Với lớp khô lá vỡ
Có thể chẳng bất ngờ
Bởi mùi hương cỏ mật
Vùi sau lưng ẩm ướt
Đã thân quen mấy lần
Cũng có khi bần thần
Nhặt lên vài chiếc lá
Ta với mình xa lạ
Nỡ nào làm đau nhau
Nhấp một chén tiêu sầu
Kéo mặt trời thức dậy
Hâm cho ngày nóng lại
Để mùa đông bớt buồn
Lại ước có một hôm
Ai đó ngồi bên cạnh
Đan tay che gió lạnh
Cho em như đã từng
Đã mặn muối cay gừng
Hay còn đang bỡ ngỡ
Xin đừng ai dang dở
Ngày sang đông… gió lùa…
V.K.L
KIM DŨNG
Nghe hát Ca trù
Ngày xuân nghe hát Ca trù
Hợp gu các cụ gật gù khen hay
Ca nương càng hát càng say
Trống chầu cầm nhịp ngất ngây cung đàn
Người nghe như mở ruột gan
Lời yêu thánh thiện cao sang tuyệt vời
Ngày xưa các cụ ăn chơi
Ngồi nghe đàn hát có người tương tư…
Bây giờ nghe hát như mơ
Thả hồn gửi gắm vào thơ trữ tình
Ca trù hát ở Cửa đình
Tiếng đàn, nhịp phách nghĩa tình làng quê
Người ơi hát nữa đừng về
Lắng nghe em hát đã mê hồn rồi
Ca nương là ca nương ơi!
Hôm nào dạy hát cho tôi theo cùng.
K.D
Hà Thành
Nõn nà tháng Giêng
…Chần chừ mãi
đông cũng phải qua
Hương xuân mỏng mảnh
nắng òa tiếng chim
Tháng Giêng đậu xuống vai em
búp xanh như ngón tay mềm đan nhau
Từ ngàn xưa
đến ngàn sau
vẫn là mẹ đất
đẻ đau tháng ngày!
Nắng xuân
chúm chím lòng tay
môi kia cứ nõn
mắt này cứ non!
Bốn mùa
dày – mỏng, khuyết – tròn
ngọc ngà cuối Chạp…
mãi còn trong nhau!…
H.T
Nhà thơ Nguyễn Đình Phúc
Thơ tôi như cánh cò quê kiểng
quẩn quanh bờ bãi la đà
nhặt mót phù du, đường cày cha chơm chớm
nhặt dáng mẹ còng, cháy đỏ hoàng hôn
nhớ cánh cò tôi nhớ về chim Lạc
những khuất chìm rạng rỡ nghìn năm
đất nước đẹp từ cội nguồn thao thiết
khúc đồng dao trù phú mọi miền
ơi cánh cò trắng như sữa mẹ
cứ phập phồng nuôi sức lớn cháu con
mẹ đã xa cánh cò viễn xứ
vẫn bồn chồn mây trắng những tầng không
niềm thơ tôi thoảng cánh cò tâm tưởng
suốt một đời chỉ một tiếng cò thôi
bay lả bay la ru hời non nước
mỗi đốm cò như cúc trắng cài đêm
xin làm nét, thắm đường cong xứ sở
mỗi cánh cò lóe rạng hừng đông
Tổ quốc yên bình cờ sao lấp lánh
những cánh bay dào dạt mùa xuân.
TRẦN THỊ NƯƠNG
Nhớ những bàn tay
Có những phút tâm hồn sâu thẳm
Lặng thầm nhớ mãi những bàn tay
Ơi những bàn tay đã đỡ nâng tôi
Tiếng khóc chào đời nỗi đau vượt cạn!
Ơi những bàn tay tháng ngày thầm lặng
Manh áo bài thơ hạt muối nuôi mình!
Ơi những bàn tay suốt cuộc hành trình
Xé toạc rào gai đào đêm cứu bạn!
Ơi những bàn tay đồng cảm
Vẫn hướng về nhau dù ở xa vời!
Những bàn tay ấm áp quá thôi
Bắt tay một lần đời thành có thật!
Những bàn tay rưng rưng thương tiếc
Vuốt mắt người đi không trở lại bao giờ!
Những bàn tay chai sạn nắng mưa
Tìm dắt nhau chín chiều bão đổ…
Những bàn tay nối tình người muôn thuở
Phút thiêng liêng và những phút dại khờ…
T.T.N
NGUYỄN HẢI YẾN
Chiếc bình
Chiếc bình mới cắm hoa
Ngày mai thành bình cũ
Rượu từ men gạo ủ
Chiếc bình từ đất nung
Cũ thì không được dùng
Dù nâng niu khi mới
Mùa đông còn chưa tới
Đã thấy mùa xuân qua
Cũ, mới khi vỡ ra
Đều bơ vơ từng mảnh
Hoa từng bông rũ cánh
Nước trong bình mục thân
Trải ngàn năm bão giông
Bình cũ thành bình cổ
Để thờ khi đến độ
Không thể tìm đâu ra?
Ngày mai là hôm qua
Của ngày kia chưa tới
Những muộn phiền cũ, mới
Để thờ hay cắm hoa?
N.H.Y
Nguyễn Xuân Đạt
Ngọn đèn thời gian
Thời gian trôi có bao giờ quay trở lại
Chỉ khi ta vô tình bắt gặp kỷ niệm xưa
Ngọn đèn trong tim bật sáng
Soi mọi ngõ ngách con đường
Quét lên hình hài dĩ vãng
Ta mở cửa ngày xưa
Thấy cả một thời trai trẻ
Ta nhớ đêm văn nghệ
Cây đèn bão đung đưa
Ánh sáng đèn dầu vẫn lung linh tỏa sáng
Ta cùng em hát song ca
Bài “Ngọn đèn đứng gác“
Để mãi sau này ta còn nhắc về nhau
Ôi thời gian đậm nhạt những sắc màu
Còn mãi trong ta một thời để nhớ
Giữa phồn hoa ta đâu quên đói khổ
Vẫn có một ngọn đèn thắp sáng lương tri…
N.X.Đ
HOÀNG XUÂN CỪ
(Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Phú Thọ)
Việt Trì
Thành phố huyền thoại đến hiện đại (*)
Việt Trì: Kinh đô đầu tiên của nước Việt, Thành phố của những huyền thoại
Ai về thành phố Ngã ba sông
Nơi nguồn cội con Hồng cháu Lạc
Lịch sử lần theo gốc gác
Đất linh thiêng ghi tạc muôn đời
Vua Hùng chọn nơi đây khởi nghiệp
Mười tám đời kế tiếp cháu con
Còn đây dấu tích vàng son
Theo năm tháng vẫn còn rực rỡ
Nước Văn Lang thuở xưa non trẻ
Voi chầu về đất Mẹ chín chín con
Núi Tản, sông Đà, với nước non
Là phên dậu giữ giang sơn xã tắc
Lúc cha ông chống giặc ngoại xâm
Như Thánh Gióng kiên tâm, sắt đá
Độc lập, tự cường, cao cả
Dựng nước, giữ nước, lan tỏa muôn đời
Thuở hồng hoang một thời gian khổ
Phải chống chọi biến cố thiên nhiên
Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mai An Tiêm
Biểu tượng cần cù, kiên cường lao động
Lòng đất Mẹ, đa tầng văn hóa
Vật thể, phi vật thể lan tỏa khắp nơi
Dấu ấn nguồn cội một thời
Bản sắc văn hóa đời đời khắc ghi
Di sản từ sơ kỳ đồ đá
Đến hậu kỳ thời đại đồng thau
Văn Lang, như một ga tàu
Nơi hội tụ muôn màu văn hóa
Đất Mẹ có hàng trăm lễ hội
Từ Đền Hùng đến Mẫu Âu Cơ
Phết Hiền Quan, rước kiệu Hùng Lô
Trò Trám, hát Xoan, Lăng Sương, lễ hội
Mỗi dân tộc, đều có nguồn cội riêng
Nguồn cội Việt vững bền sức sống
Cháu con cùng chung huyết thống
Một bọc hồng bào, cùng giống Rồng Tiên
Mồng Mười tháng Ba, mọi miền đất nước
Về giỗ Tổ là cuộc hành trang
Về đây thắp một nén nhang
Cầu cho Quốc thái, dân an vững bền
Nước Văn Lang, thời đại Hùng Vương
Có công lớn, mở đường dựng nước
Một quốc gia, một dân tộc
Phát triển vững bền xây gốc đầu tiên
Tự hào là cháu con nước Việt
Từ muôn đời oanh liệt cha ông
Từ đây một dải non sông
Hướng về đất mẹ tổ tông Lạc Hồng
Việt Trì: Một trong hai thành phố công nghiệp đầu tiên của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, là thủ phủ: Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Phú Thọ
Mồng Bốn, tháng Sáu năm Sáu Hai
Việt Trì, một trong hai thành phố
Vinh dự thay vùng đất Tổ
Công nghiệp Việt Trì rực rỡ thăng hoa
Từ ngày ấy quê nhà thay đổi
Công nghiệp như giọt nắng tinh khôi
Chủ nghĩa xã hội đến rồi
Thành phố khởi sắc đổi đời từ đây
Phú Thọ đặt Việt Trì xây tỉnh lỵ
Là trung tâm chính trị ngày nay
Kinh tế xã hội đổi thay
Phép màu chắp cánh tung bay thần kỳ
Việt Trì chọn bước đi đổi mới
Xây thành phố hướng tới tương lai
Sáu mươi năm một chặng dài
Việt Trì vững bước sánh vai bạn bè
Kết cấu hạ tầng khâu đột phá
Cải cách hành chính bứt phá đi đầu
Chính quyền điện tử chuyên sâu
Hệ thống chính trị đầu tàu tiên phong
Thế nước xưa tựa núi, nhìn sông
Để giữ nước cha ông tôn tạo
Bốn sông như bức thành cao
Ngăn quân xâm lược không vào được đây
Nay phá thế bao vây sông nước
Năm cây cầu từng bước vượt sông
Vút lên như thể cầu vồng
Việt Trì vươn tới nối dòng ngược xuôi
Bốn cửa ô cùng đua mở cửa
Bốn trục dọc chạy giữa nội đô
Dọc ngang như thể bàn cờ
Phù Đổng thẳng tiến Thủ đô đến gần
Việt Trì có hai Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và xây dựng thành phố lễ hội về cội nguồn của dân tộc Việt Nam
Để xây dựng thành phố lễ hội
Về cội nguồn dân tộc Việt Nam
Khẩn trương những việc cần làm
Phục dựng di sản phải càng quyết tâm
Ai qua lối rẽ Thậm Thình
Trên đường rước kiệu về đình Hùng Lô
Làng Xốm cổ, phố ngoại ô
Dưới thuyền, trên bến sông Lô rộn ràng
Là đầu mối giao thương thuận lợi
Nơi công thương kết nối giao liên
Sản xuất chế biến gắn liền
Ẩm thực nguồn cội mọi miền biết tên
Làng nghề xưa hồi sinh đủ thứ
Gợi cho ta quá khứ nơi đây
Bánh chưng, bún mọc, bánh giầy
Dâng cha, kính mẹ, đong đầy nghĩa xưa
Về Kim Đức, sẻ chia Xoan Ghẹo
Làng Cổ Tích muôn nẻo diễn ca
Điểm tô, thêm sắc cờ hoa
Nhị đàn, thánh thót đậm đà nét xưa
Ai về làng cổ Minh Nông
Vua dạy dân nuôi tằm trồng lúa
Tịch điền vua tôi rèn giũa
Văn minh sông Hồng từ thuở bình minh
Lòng đất mẹ hồi sinh làng Cả
Nơi lưu truyền, gia phả ông cha
Đậm tình dấu tích tinh hoa
Ngàn đời để lại của là hồi môn
Phố đi bộ liền kề phố cổ
Khách thập phương đều đổ về đây
Khách ta, cùng với khách Tây
Thả hồn, thưởng ngoạn, nhìn cây, ngắm hồ
À lại đây rồi phố Tiên Dung
Xem Chử Đồng Tử thủy chung thế nào
Ngắm nhìn trời đất xôn xao
Như hồn ta đã lạc vào thủy cung
Phố ẩm thực vạn hoa đua sắc
Phóng tầm nhìn qua bắc bờ hồ
Ghe thuyền dồn dập nhấp nhô
Tranh tài, đua chải, điểm tô hội làng
Mải vui qua ba nhịp cầu vàng
Tiễn chân du khách về làng bên kia
Tạm dừng nghỉ, đọc văn bia
Trưng Vương nữ tướng thuở xưa lẫy lừng
Phố Nguyễn Du tưng bừng ngày hội
Nhớ danh nhân mong đợi bao nhiêu
Trải lòng thương nhớ nàng Kiều
Bao chàng Từ Hải liêu xiêu vì tình
Ồ, gà chín cựa, chín món đây
Thịt trâu, lá lốt, cần tây, tương gừng
Lăng, chiên, nước sốt thơm lừng
Ôi, cá anh vũ, đã từng tiến vua
Công viên Văn Lang như nàng thục nữ
Hồ trong xanh lưu giữ mạch nguồn
Bình minh cho nắng thổi hồn
Cây xanh hoa thắm đùa vờn gió mây
Chờ du khách về đây thưởng ngoạn
Để tâm hồn thư giãn khát khao
Ngắm nhìn thành phố tầm cao
Điện, đèn lấp lánh như sao giữa trời
Thành phố ơi, ở nơi đáng sống
Về nơi đây mở rộng tình thương
Khởi dòng văn hóa về nguồn
Là ta đã giữ, lời nguyền với tổ tông
Bao huyền thoại cháu con tái dựng
Để mạch nguồn bền vững thanh cao
Ôi! Thân thương hai tiếng đồng bào
Thành phố lễ hội tiến vào văn minh
Lời kết
Thành phố, tuy tuổi mới sáu mươi
Nơi ông cha bao đời xây đắp
Bách việt về đây tụ gặp
Để hồn thiêng tỏa khắp muôn nơi
Ôi! Việt Trì kinh kỳ nước Việt
Giữ mạch nguồn oanh liệt thủy chung
Từ đây con cháu Lạc Hồng
Xây dựng đất nước non sông mạnh giàu
Núi Nghĩa Lĩnh, ngát trời hương tỏa
Từ Sơn Lâm, biển cả về đây
Bốn phương Nam, Bắc, Đông, Tây
Chung lòng, chung sức, dựng xây nước nhà
Từ kinh đô đầu tiên nước Việt
Nơi tụ hiền, hào kiệt bốn phương
Khai sơn, lấn biển mở đường
Hào quang nước Việt hùng cường vươn xa
“Từ Đền Hùng, nhìn ra cả nước
Để cả nước hướng tới Đền Hùng”
Hướng về đất mẹ bao dung
Máu đào một bọc, cùng chung giống nòi
Cũng nơi đây cháu con ghi tạc
Lời Bác dạy vọng khắp non sông
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Từ thành phố ngút trời khói tỏa
Máy âm vang rộn rã ngân nga
Thành phố công nghiệp tiến xa
Chủ nghĩa xã hội bài ca vững bền
Hai Di sản là điều kỳ diệu
Thờ cúng Hùng Vương, làn điệu hát Xoan
Để cả thế giới ngỡ ngàng
Khẳng định văn hiến vững vàng tôn vinh
Xây thành phố về nguồn lễ hội
“Cây có cội, nước có nguồn”
Văn hóa nền tảng, trường tồn với thời gian
Lịch sử ngàn năm đã qua đi
Di sản cha ông để lại
Thủy chung, nhân ái, hiền tài
Lịch sử rực rỡ, tương lai rạng ngời
Di sản đại diện cho nhân loại
Đã nâng tầm thời đại Hùng Vương
Rạng danh đất Tổ quê hương
Huyền thoại, đến hiện đại, con đường tương lai…
H.X.C
(*) Nhân kỷ niệm 60 năm thành lập thành phố Việt Trì (ngày 04/06/1962 – 04/06/2022).
HOÀNG QUÝ
Ru lên thật thà
Em về phương ấy
Bỏ rêu phương tôi
Trời như mắt biếc
Em đã xa xôi
Câu ru thật thà lặng xanh hư vô
Câu ru thật mềm người riêng mang đi
Tôi theo ngược miền gió cả
Ru tôi từng ngày thấm mệt
Chợ đã chiều
Gương đã bụi
Còn tôi?
Ru xanh êm xanh ruộng đồng
Ru em câu thơ dịu dàng
Rồi xa!
Bao ru tôi mang thật buồn
Đi qua bao nhiêu giận hờn
Người ơi!
Ru người, ru tôi…
H.Q
TRẦN NHÃ MY
Cà phê với núi
Mặc kệ mưa phương nào không biết
góc cà phê Ngũ Hành Sơn vừa tầm ngắm
vàng ươm từng sợi nắng
ngọt lịm môi cười trong chút mặn mòi gió biển
Phật Thích Ca ẩn hiện trong mắt xa xôi
sách xưa tích cũ trôi về nguyên vẹn phía em ngồi
thoáng thấy Lão Tử đang đi vào núi
có gặp không, Khổng Tử từ vách đá bước ra?
Em không là con gái phú ông
chưa từng chứng kiến mười tám tên cướp xông vào cửa phủ
giọt cà phê thì thầm vừa đủ
những viên đá giòn khua gọi giấc xưa từ lâu lắm chưa về
Anh dắt lên chùa
trả lời em câu hỏi về vẻ mặt hun của Thập Bát La Hán
anh diễn mặt buồn, mình cũng từng trong số đó
nhưng còn mắc nợ trần gian
Nợ những lần cùng em góc quán
nợ những bước chân hoang dìu em khắp cùng suốt kiếp
anh giả vờ trả hoài không hết để thành thừa
cho em nợ ngược và trả mãi kiếp sau…
T.N.M
VŨ ĐÌNH KHUYÊN
Yên Tử
Núi xếp theo nhau thế hình Rồng
Sừng sững quay về phía biển Đông
Yên Tử một lần ai đã đến
Phóng tầm con mắt ngắm xa trông
Núi biếc non xanh tận chân trời
Dạt dào sóng vỗ phía biển khơi
Gió reo rừng trúc ngàn thông nội
Cỏ cây hoa lá tốt xanh tươi
Tích cũ xa xưa ở nơi này
Phật Hoàng tu đạo có ai hay
Mạch nguồn Phật đạo linh thiêng đó
Phượng múa Long chầu cả về đây
Để lại ngàn năm một mạch nguồn
Từ nơi Phật hóa nước hương thơm
Cho non sông Việt thêm cường thịnh
Danh thơm lan tỏa khắp muôn phương.
V.Đ.K
TRẦN THỊ HỒNG SÂM
Bông hoa bàng vuông trên đảo nhỏ
Bông hoa bàng vuông anh gửi về từ đảo nhỏ
Vì biển xa bờ nên tím nhớ thương
Đêm đảo mặn hơi muối, gió, sương
Anh chụp vội tặng em, mừng sinh nhật
Hoa bàng vuông như tấm lòng chân thật!
Anh lính đảo mang đất nước trong tim
Yêu lính đảo em giữ trọn niềm tin
Yêu bàng vuông giữa ngàn xa vời vợi
Hoa nở từ giọt mồ hôi nóng hổi
Rạo rực tim anh trực chiến trên đài
Một cánh hải âu liệng giữa biển rộng dài
Đem đến cho anh ân tình quê mẹ
Sóng bờ cát hiền thỏ thẻ
Nhớ buổi tòng quân em tiễn lên đường…
Em yêu nhiều, nhiều lắm… hoa bàng vuông
Đóa hoa của biển căng tràn nhựa sống
Nở hiên ngang giữa biển trời gió lộng
Mời trăng lên sánh bước tuần tra
Cánh nhạn hồng theo sóng khơi xa
Đất nước tự hào, ơi anh – người lính đảo!
T.T.H.S