Cha và bác tôi đã cố gắng biến tôi trở thành một người đàn ông bằng cách cố dạy tôi cách câu cá. Vào cuối mùa đông tuổi 14 của tôi, ngay khi hồ băng tan, cha tôi đã nhờ ông tôi bắt đầu huấn luyện cho tôi.
Ở làng của chúng tôi, những cậu bé không được đặt tên khi sinh ra. Thay vào đó, các buổi lễ đặt tên được tổ chức vào ngày sinh nhật lần thứ 15. Vào ngày đó, một cậu bé sẽ thể hiện năng khiếu trong bất kỳ những kỹ năng nào mà cậu ấy muốn. Các già làng sẽ đánh giá những nỗ lực của cậu ấy và ban cho cậu ấy một cái tên nếu cậu ấy thể hiện đủ tài năng. Nếu màn trình diễn của cậu ấy bị coi là kém thì cậu ấy sẽ không có tên thêm một năm nữa. Tôi biết nhiều cậu bé thiếu khả năng đã trốn khỏi làng để tránh xấu hổ.
Ông nội tôi được đặt tên là Tsgnorsian, hay “người câu cá”. Kể từ khi ông còn là một chàng trai trẻ, những tin đồn đã lan truyền, thậm chí lan đến tận Baku, về khả năng phục hồi của những con cá mà ông bắt được. Người ta nói rằng nếu được ăn cá được bắt bởi ông của tôi thì nó có thể chữa khỏi bệnh và tăng khả năng chịu đựng. Ngay cả những người tuần tra làng của chúng tôi, Otto cũng thường mua cá của ông tôi, Tsgnorsian. Những già làng của chúng tôi khoe khoang rằng họ đã biết Tsgnorsian có tài từ khi còn nhỏ. Ông tôi là một đứa trẻ mồ côi đến từ Tarsus, đó là nơi mà mọi người nói rằng các vị thần đã sống ở đó. Mẹ của ông, được cho là Astghik, nữ thần nước. Ông tôi không bao giờ xác nhận câu chuyện này cũng như không bao giờ đính chính.
Cha và bác của tôi biết rằng so với cha thì họ sẽ bị coi là không xứng đáng là ngư dân. Khi đến tuổi trưởng thành, họ đã chọn theo đuổi nghề săn bắn. Vào mùa đông, họ tìm kiếm lông thú hoặc da của hươu và dê. Vào mùa hè, thì là lông và da của những con vật nhỏ hơn, như gấu trúc và đôi khi là cả rái cá. Cha tôi được đặt tên là Gaitzagian, nghĩa là “sét đánh nhanh như chớp” và bác tôi là Makoormortian, nghĩa là “dao trổ quét sạch”. Khi họ còn là những cậu bé, cha và bác tôi đã thỏa thuận: nếu một trong hai người có con trai, khi đó nó sẽ nhận được tước hiệu Tsgnorsian. Khi đó, họ lý luận rằng, cha sẽ quá yếu để tiếp tục khẳng định quyền sở hữu cái tên đó và niềm tự hào của gia đình có thể được truyền sang thế hệ khác. Nhưng điều kỳ lạ đã xảy ra: khi ông tôi già, ông thậm chí còn bắt cá giỏi hơn. Ông tôi nói rằng thị lực của ông ngày càng kém đi khiến ông phải cầm nắm chặt hơn và rằng đôi mắt của ông đã kìm hãm ông lại. Ông không bao giờ cho phép bất kỳ ai khác lên thuyền cùng mình, khi đó tôi thường quan sát ông nhiều lần từ bờ hồ. Búi tóc xám phía trên mắt ông rẽ thành một đường không ngắt quãng. Ông vẫn như một cái cây, cả cơ thể ông đang chờ đợi để phát hiện dù chỉ một chuyển động nhỏ nhất của lưỡi câu trong nước.
Không ai hỏi tôi về cái mà tôi muốn thể hiện; tôi đã không có sự lựa chọn. Tôi mong muốn làm những điều không liên quan đến giết chóc. Tôi muốn làm bánh. Làng của chúng tôi có những cái lò nướng được xây với một cách rất đặc biệt. Chúng được xây ở dưới lòng đất giống như giếng. Mẹ tôi đưa tôi đến đó làm việc khi cha tôi đi săn. Người làm bánh mì trong làng tất cả đều là phụ nữ, họ ngồi buôn chuyện trong khi nhào bột, nước với muối. Khi bột nhào đã đủ dẻo, chia thành từng miếng nhỏ được dàn mỏng bằng cái muôi phẳng. Người làm bánh sẽ quỳ cạnh lò và đập bột vào thành chiếc lò nóng. Nếu làm đúng cách, bột sẽ dính vào thành đất sét, sau một lúc là có thể cạo bánh ra và để nguội. Hơi ấm của những chiếc bánh tràn ngập căn phòng, mùi hương, giống như mùi hương trầm, nó khiến tôi choáng váng. Nhưng nếu làm bánh không đúng cách, bột sẽ rơi xuống lửa và trong lúc không ai nói gì thì bạn nên biết rằng họ đang đếm xem bạn đã làm hỏng bao nhiêu cái. Đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Tôi thì lại thích kiểu đánh lừa đó, rất cần cho tốc độ và sức mạnh. Mẹ tôi, Armine, là một trong những người làm bánh giỏi nhất. Bà rất kiên nhẫn với những cô gái trẻ và tôi, cũng không nói xấu người khác. Bà búi mái tóc đen dài của mình lại để có thể đi lại dễ dàng hơn. Không một phụ nữ nào gọi là mong manh ở đây cả, sau bao lần phạm lỗi, bàn tay của họ có màu hạt dẻ vì chạm vào lửa. Khác với họ, tay của mẹ tôi mềm và mịn. Nhưng bà đã bị ốm vào một mùa đông và qua đời trước khi tôi lên 10.
Cha và bác tôi đã cố gắng biến tôi thành một người đàn ông bằng cách nỗ lực dạy tôi cách câu cá. Vào cuối mùa đông năm tôi 14 tuổi, ngay khi hồ tan băng, cha tôi muốn ông tôi bắt đầu huấn luyện cho tôi. Trở thành một người câu cá có nghĩa là có một cuộc sống tươi đẹp, cha tôi tuyên bốH. Nếu tôi trở thành một Tsgnorsian mới của làng chúng tôi thì tôi sẽ không cần làm việc vất vả nữa. Chỉ cần “một mùa vài con cá” là tôi có thể kiếm đủ tiền để lo cho những nhu cầu của mình. Cha tôi kết thúc bài phát biểu với một câu tục ngữ từ làng của chúng tôi: “Hãy nhớ rằng con đường dẫn đến sự giàu có là may mắn”.
Nhưng ông tôi lại không thích thú trở thành giáo viên, càng không muốn trở thành người trông trẻ.
“Không ai dạy ta những cái ta đã học”, ông nhấn mạnh, một trong nhiều lần cha tôi cầu xin ông dạy tôi những cái ông biết. “Nó sẽ tiêu tan kinh nghiệm của thằng bé”.
Tôi bây giờ đã nhiều tuổi hơn ông tôi khi đó và tôi nghĩ tôi hiểu sự trầm lặng của ông. Có thể ông muốn tôi kiếm được niềm tự hào của mình bằng cách làm việc chăm chỉ. Tuy nhiên, vào một buổi sáng mùa xuân, trước cả khi gà trống thức giấc, ông tôi đã đứng bên giường tôi, lay tôi dậy và dẫn tôi ra ngoài, nơi có một con ngựa đồng đang chờ. “Con sẽ đi bộ theo ông và Dorgom nhé”, ông tôi nói. “Nhớ mang theo dụng cụ nhé”.
“Dụng cụ ạ?” tôi hỏi và ngáp một cái.
“Để câu cá!” ông gầm lên, chỉ vào một cái bao tải cồng kềnh với đôi gậy và một khẩu súng trường nhô ra khỏi đó. Tôi nhận ra đó là của mình, món quà của bác tôi đã tặng nhiều năm trước.
Dọc đường đến hồ, chúng tôi đi ngang qua một người mổ lợn và người học nghề của ông ta, những con dao bọc da của họ đung đưa bên hông. Tôi tình cờ nghe thấy họ thì thầm rằng ông nội tôi thật độc ác khi để tôi đi bộ đằng sau con ngựa trong khi ông ấy cưỡi nó.
“Đừng xen vào việc của người khác” ông hét vào mặt họ.
Chúng tôi đến hồ khi mặt trời vừa mọc. Thay vì cát hay phù sa, bờ biển được tạo nên từ đá và đá cuội. Xa xa, một chiếc thuyền độc mộc bị lật úp và được buộc vào cọc kim loại với một sợi dây thừng. Ông chỉ dẫn cho tôi tháo dây buộc cái thuyền trong khi buộc chặt Dorgom vào cái cây. Tôi từ từ tiến lại chiếc thuyền, chạm chạm vào từng viên đá, xem xét sự chắc chắn của chúng trước khi dẫm lên. Cánh tay tôi bị đau vì mang đồ nên hơi khó để tháo nút thắt. Tôi để ý thấy trên mạn thuyền có những dòng chữ nguệch ngoạc bằng sơn trắng đã phai màu. Tôi nghe thấy tiếng ông hét nhưng không thể nghe rõ ông nói gì bởi tiếng sóng. Ngay khi tôi nới lỏng sợi dây, một con sóng ập về phía tôi, đẩy nước lên tới mắt cá chân. Tôi bị trượt chân trên những hòn đá. Khi nước rút, tôi ngã sấp, một viên đá sắc nhọn đâm vào đùi trái của tôi. Bên cạnh tôi, chiếc thuyền không neo nằm nghiêng. Chữ trên tàu là: “Lucine”, tên của bà tôi.
“Opegh-tsapegh”, ông tôi gầm lên khi chạy về phía tôi. “Con không để ý à? Con không nghe thấy à? Đi, đi lên lau khô người đi để ông kiểm tra con thuyền. Nhanh lên!”
Tôi đã nhặt nhiều cành cây và que củi nhất có thể. Khi bàn tay tôi run lên, tôi đã đánh lửa bằng hai viên đá và tiếp tục bỏ củi vào cho đến khi lửa cháy to. Ông tôi lật ngửa con thuyền lên; khi tôi làm ấm người thì tôi thấy ông đang quét sạch bụi bẩn và nước bên trong nó. Một tay ông kéo chiếc thuyền sang một bên, còn tay kia từ từ múc những mảnh vụn ra. Sau đó, ông xoa hai tay vào nhau và lặp lại quy trình.
Đó là lần đầu tiên tôi ra khỏi đất liền và tôi bước một cách cẩn thận lên thuyền. Ông tôi nhờ tôi tháo cái nút thắt; sau đó ông đẩy chiếc thuyền gỗ của chúng tôi xuống nước; mang theo một mái chèo mà ông đã nhét vào bên dưới tấm ván duy nhất được đóng một cách vụng về ở giữa chiếc thuyền. Tôi đã cố gắng để không bị say sóng khi ngồi đối diện với ông tôi, người đang điên cuồng chèo thuyền về phía những ngọn núi xa xôi. Dorgom bị buộc trên bờ biển. Con thú tội nghiệp chắc có lẽ đang đói, không thể đi lang thang trong rừng để tìm kiếm thức ăn. Ông tôi móc một con giun bằng lưỡi câu, đứng dậy và thả câu. Sau đó ông rút túi thuốc và giấy ra và cuộn một điếu thuốc. Tôi đã tự chọc vào mình nhiều lần để cố gắng móc con giun vào lưỡi câu. Nó quằn quại khắp hướng và tôi không thể nào bắt nó chấp nhận số phận được. Sau đó tôi hoàn toàn không thể hất cổ tay mình để thả câu được, vì vậy tôi đã tháo sợi dây ra khỏi trục quay và chỉ cần ném cái móc đi xa nhất có thể. Nó chìm xuống nước với cú đáp hoàn hảo.
Chúng tôi đã trải qua ngày đầu tiên cùng với nhau. Ông tôi nói rằng tôi chỉ được phép ăn bất cứ cái gì tôi bắt được. Ông thì đã bắt được hai thùng trong vòng một giờ, sau đó là thêm ba thùng nữa; tôi thì chẳng bắt được gì. Mỗi lần ông bắt được một con cá, ông đều ném nó lại hồ. Khi mặt trời xuống, ông bắt con cuối cùng cho bữa tối, sau đó chúng tôi chèo thuyền trở lại bờ hồ.
Trong những ngày đó, tôi là một thợ săn chính hiệu. Tôi có thể lần theo động vật và bắn chúng từ khoảng cách trung bình. Trong khi ông sắp xếp chỗ ở thì tôi đi vào rừng với khẩu súng trường. Không lâu sau đó, tôi cúi thấp người đi theo một con thỏ. Khi tôi ở trên cửa hang của nó, tôi chọc khẩu súng của mình vào hang để cố xua nó ra, nhưng không gặp may. Tôi không muốn trở về tay không, bởi vì tôi không thể chịu đựng được lời phán xét của ông cũng như tiếng kêu từ chiếc bụng rỗng. Nên tôi tiếp tục tìm kiếm những con mồi khác. Và đó là khi tôi bắt gặp một con cừu hoang khổng lồ. Lưng của nó quay về phía tôi và mặt trời lặn đã làm bộ lông đỏ của nó trông như cháy. Một thanh niên trẻ, vênh vang và hăm hở đang tự do lang thang một cách đầy ngạo mạn. Tôi quỳ xuống và đợi cho đến khi nó quay đầu về phía tôi và sau đó lỗ mũi tôi đầy khói lưu huỳnh của khẩu súng trường.
Tôi vác con thú lên vai và loạng choạng quay trở lại trại. Khi tôi trở lại với ông tôi, tôi bị chảy máu khắp người vì cào phải gai và rễ cây.
“Cái quái gì…” ông tôi bắt đầu, rồi dừng lại, nhận ra con cừu. Miệng ông há hốc. “Con đã làm gì vậy, cậu bé?”
Chúng tôi đã im lặng lột da con vật một lúc rồi cuối cùng ông tôi cũng lên tiếng. “Ông đã không ăn thịt cừu hoang kể từ khi ông còn trẻ hơn con. Lucine không bao giờ chấp nhận nó. Bà ấy nói đó là một con vật ma thuật và sẽ rất xui xẻo nếu bị giết”. Ông dừng lại một lúc, con dao của ông đang vung giữa chừng. “Ông thì cho rằng đằng nào chúng ta cũng gặp xui xẻo”.
Sau khi lột lớp da khổng lồ của nó, chúng tôi treo nó lên một sợi dây vắt ngang qua hai thân cây. Ông tôi nhóm lửa lớn hơn cho chúng tôi, nhưng không ngờ bữa ăn như vậy, ông chỉ chuẩn bị một xiên nhỏ. Chúng tôi cắt con cừu thành những miếng nhỏ và làm một món nướng từ nội tạng của nó. Chúng tôi bọc phần thịt còn lại trong lưới và đem đè xuống đáy hồ lạnh giá bằng một tảng đá lớn. Chúng tôi đưa con cá cho Dorgom, nó có vẻ rất phấn khích, tạo ra những đám bụi tung lên khi móng guốc của nó đập xuống đất khô. Ba chúng tôi ăn đối diện nhau, xé từng miếng thịt chín. Nó tan chảy trong miệng tôi như bơ và có vị ngọt ngào đến bất ngờ.
“Ông ơi”, tôi nói. “Bà Lucine như thế nào?” Tôi chưa bao giờ nghe ông tôi sử dụng bất cứ từ gì gần giống với từ “yêu” khi nói về vợ mình. Tôi muốn biết tại sao ông ấy lại đặt tên thuyền của mình theo tên bà.
“Bà ấy là một người phụ nữ tốt, đáng tin cậy”.
“Ý của con là, ông sẽ kể về bà chứ?”
“Ông chắc là bố và bác của con đã nói mọi thứ con cần biết rồi”.
“Thực ra”, tôi thì thầm, “cha con không bao giờ nhắc đến bà”.
“Ông không biết rằng mình đã nuôi lớn một đứa con kinh khủng như vậy đấy. Mọi đứa con trai nên yêu mẹ chúng”. Sau đó, ông sững người, như thể ông vừa bắt gặp một đối tượng mà ông đang tìm kiếm. Dường như ông tôi vừa nhớ ra mẹ tôi đã mất mấy năm trước, vì người ông mềm nhũn ra, ông dựa lưng vào khúc gỗ mà ông ngồi.
“Lucine là con gái của một thợ rèn. Bà ấy rất xinh đẹp, với mái tóc đen dài đến eo và đôi mắt nâu sẫm thu hút. Không một người nào theo đuổi bà ấy được chấp nhận bởi cha bà ấy. Cánh tay của ông ấy có sẹo do bị bỏng và tay ông rất xương xẩu do phải cầm nắm những dụng cụ. Ông thường gặp bà ấy vào các buổi chiều – ông thì trở về từ hồ với bất cứ thứ gì ông bắt được, bà ấy thì đến hồ để đem nước về nấu ăn hoặc đến để lấy đất sét. Ông biết cha bà ấy sẽ không chấp nhận bất cứ ai, ít nhất là một đứa trẻ mồ côi, vì vậy những cuộc trò chuyện của ông với bà ấy đều rất nhanh chóng và hời hợt. Nhưng vào một buổi chiều, ông bà đã thỏa thuận với nhau: Nếu ông có thể bắt đủ cá cho bà và gia đình bà ấy thì bà ấy sẽ nấu cho ông ăn tại nhà của bà ấy. Ông đã cầu nguyện với tất cả sức mạnh để một con cá xuất hiện và sáng hôm sau, lạ lùng thay, con cá lớn nhất ông từng thấy nhảy lên khỏi mặt nước, trúng ngay vào thuyền của ông. Một phép màu. Đêm đó, khi Lucine và mẹ bà ấy đã làm sạch con cá và chuẩn bị bữa ăn, cha bà ấy và ông ngồi đối diện nhau. Ông cảm thấy không thoải mái, còn ông ấy thì thích thú với quyền lực của mình, đã tận dụng tình hình bằng cách hỏi ông đủ loại câu hỏi về ý định của ông với con gái ông ấy. Cuối cùng, bữa ăn đã tới. Lucine và mẹ bà ấy đã nướng con cá bằng lò đất sét, phết bơ lên trên. Cha bà ấy cắn một miếng và gần như ngã khỏi ghế. “Chàng trai, cậu bắt con cá này trong hồ à?” ông ấy hỏi và ông gật đầu. Ông ấy nhìn vợ mình, người đang cười rạng rỡ và sau đó ông ấy cho phép ông cưới con gái ông”.
Tôi hài lòng đi ngủ, tưởng tượng ra niềm vui trên khuôn mặt cha tôi khi tôi khoe tấm da thú. Đêm đó, tôi tỉnh giấc sau một giấc ngủ sâu với nhu cầu giải tỏa của bản thân. Tôi đi vào rừng và sau khi tôi xong việc, tôi tìm ông. Ánh sáng màu hổ phách từ điếu thuốc của ông tôi giúp tôi nhận ra bóng dáng của ông trên bờ biển. Ông đang nâng những tảng đá xung quanh một địa điểm cụ thể. Sau khi hoàn thành một vòng tròn, ông quỳ xuống và dùng tay đào một cái hố trên mặt đất ẩm ướt. Có vẻ như ông đang nói vào cái lỗ, nhưng tôi ở quá xa để nghe thấy. Sau đó, ông bịt lỗ, đứng và nhìn ra mặt nước một lúc. Tôi không muốn làm phiền ông, vì vậy tôi quay trở lại khu cắm trại và ngủ tiếp.
Ngày hôm sau, tôi thề sẽ làm giống như ông tôi đã làm. Tôi đã cố gắng móc con giun mà không bị chảy máu trong quá trình. Tôi vẫn không thể ném dây câu của mình đi xa, mà chỉ có thể ném nó xuống nước. Chúng tôi ngồi trong thuyền hàng giờ, lưng áp vào nhau và ông tôi không mắng tôi mà tiếp tục bắt cá. Bầu trời ửng hồng, rồi hừng hực, rồi se lạnh. Sau khi ông tôi kéo cần lần thứ mười hai, ông mang cần vào thuyền. Tôi cũng bắt đầu cuốn dây câu của mình vào, nhưng anh ấy đã đặt tay lên vai tôi và siết chặt.
“Con chưa xong đâu”, ông nói.
“Nhưng chúng chẳng cắn câu”.
“Còn cái này thì sao?” ông chỉ vào mẻ lưới của mình. “Câu cá không bắt đầu khi con thả câu. Mà bắt đầu khi nó kết thúc. Con phải muốn cá cắn câu. Thái độ của con dẫn đến sự thất vọng hay hài lòng”.
Vì vậy, tôi ngồi đó thêm một lúc nữa, nghĩ về những con cá dưới nước, hy vọng rằng có một con sẽ muốn đi cùng anh em trên thuyền. Tôi thầm nghĩ: cá cá cá cá. Không có chuyện gì xảy ra. Rất lâu sau khi mặt trời lặn, chúng tôi chèo thuyền trở lại bờ. Tôi có thể nói rằng ông tôi đã thất vọng vì ông không trừng phạt tôi. Tôi ngồi cạnh ông bên đống lửa trại, ôm bụng trong khi ông ăn cá. Chính ông cuối cùng đã phá vỡ sự im lặng kéo dài.
“Có điều gì khiến con phiền lòng vậy?”
“Không có gì ạ”.
“Tsh”, ông tôi kêu lên nhưng có thể ông chỉ đang khạc ra một mẩu xương. “Ông biết tại sao con ở đây. Đó là bởi vì bố con và ông anh trai ngu ngốc của nó cảm thấy tội lỗi khi trở thành thợ săn. Và bây giờ chúng sẽ cố gắng đặt trách nhiệm giải tội cho bạn. Nếu bạn thành công, linh hồn của chúng sẽ trong sạch”.
Tôi nghĩ tôi đã thấy nước mắt trên bá của ông nhưng rất có thể đó là một cái bóng từ ngọn lửa đang nổ lách tách. Tôi đẩy về phía trước với một câu hỏi khác. “Con cừu của tối qua”, tôi bứt đầu. “Ông nói sẽ không may mắn khi giết. Tại sao ạ?”.
“Đó là cái Lucine tin”.
“Ông không ạ?”.
“Tất nhiên là không rồi. Chẳng có gì gọi là ma thuật hay may mắn cả”.
Chúng tôi không nói gì thêm trong phần còn lại của buổi tối. Chuyến đi của chúng tôi kéo dài thêm hai ngày nữa. Vào mỗi buổi sáng, chúng tôi thức dậy trước khi mặt trời mọc và chèo thuyền ra hồ. Vào thời điểm đó, tôi đã trở nên miễn nhiễm với cơn đau mỗi khi móc giun bị móc câu đâm. Trong khi nướng bánh mì đòi hỏi phải di chuyển nhanh chóng trong một khoảnh khắc, tôi đang học cách ngồi yên, vì sợ rằng bất kỳ sự xáo trộn nào sẽ khiến những sinh vật bên dưới mặt nước sợ hãi. Nhưng tôi vẫn không bắt được dù chỉ một con cá; trong khi đó, ông tôi bắt được nhiều con và ném trả lại từng con trừ con cuối cùng trong ngày. Ông không dạy tôi, không trách mắng tôi, không an ủi tôi. Tôi trở lại khu rừng mỗi đêm, nhưng có lẽ bà Lucine của tôi đã đúng, bởi vì tôi không thể tìm thấy bất kỳ con vật nào khác để săn. Thay vào đó, tôi đi nhặt các loại quả mọng và côn trùng, trong khi ông tôi ăn những quả mà ông chinh phục được. Chúng tôi trao đổi vài lời. Giọng nói duy nhất tôi nghe thấy là từ trong đầu tôi, một giọng trầm lặp lại từ cá.
Tôi ước tôi có thể nói rằng tôi đã học cách câu cá. Tôi ước tôi có thể nói rằng ông tôi đã truyền kiến thức của mình cho tôi. Nhưng tôi không trở thành ngư dân hay thợ làm bánh mì. Tôi là bồi bàn tại một nhà hàng phục vụ món súp nổi tiếng. Tôi sống ở một thành phố nhỏ gần Méditerranée. Mùi cỏ tươi đã được thay thế bằng khói xe; tiếng còi báo động đã trở thành bài hát ru của tôi. Tôi không bao giờ có đủ tiền cho bản thân mình. Tôi không bao giờ đủ khả năng để có một gia đình. Tất nhiên là có phụ nữ: đồng nghiệp, khách du lịch, bạn bè cô đơn. Nhưng không bao giờ tôi có thể khiến cho họ ở lại. Đừng hiểu nhầm, tôi đã sống sót sau khi ngôi làng của mình bị cướp phá và ba cuộc chiến tranh. Tôi biết ơn vì được sống. Tôi chỉ ước cuộc đời mình có thể khác đi.
Vào ngày cuối cùng của chúng tôi ở hồ, tôi thức dậy trước ông tôi và đi lên bờ. Tôi nhặt một hòn đá và ném nó xuống nước. Nó tạo ra một tiếng va chạm khủng khiếp và thế là tôi bắt đầu nhìn quanh tìm thêm đá để ném. Nếu tôi không thể bắt cá của mình, thì có lẽ tôi có thể đuổi chúng đi và ngăn cản ông tôi bắt bất kỳ con nào. Tôi sợ ông, nhưng cơn đói làm tôi tức giận và sự tức giận của tôi khiến tôi liều lĩnh.
Khi chúng tôi ngồi trên thuyền cùng nhau, tôi cố gắng hết sức để giải tỏa tâm trí và không nghĩ gì khác ngoài vẻ hài lòng trên khuôn mặt của ông tôi khi tôi nâng chiếc cần của mình lên. Tất nhiên, ông tôi vẫn tiếp tục đánh bắt hết con cá này đến con cá khác. Kiệt sức vì đói, tức giận với cha tôi và ông tôi và sợ hãi vì bị vô danh, tôi hét lên: “Mánh khóe quái quỷ gì vậy, ông? Có phải ông chỉ là người may mắn? Ông đang lừa dối?”.
Ông tôi đảo mắt về phía tôi. “Con không thể gian lận khi câu cá, nhóc. Và ông đã nói với con, may mắn không tồn tại. Ít nhất, không có cái gọi là may mắn”.
“Nhưng mọi người trong làng chúng ta nói”.
“Ông biết họ nói gì”, ông tôi ngắt lời, nối dây. Treo ở cuối nó là một tấm gỗ bằng bạc lộng lẫy.
Nó chỉ làm tôi tức giận hơn. “Ông đã làm gì trên cát vào đêm hôm trước? Ông đã thực hiện một thỏa thuận với ma quỷ?
“Lucine yêu cầu ông chôn tro của cô ấy ở đây”, ông nói, trừng mắt nhìn, “và ông chắc chắn sẽ nói chuyện với bà ấy bất cứ khi nào ông đến đây”. Ông gỡ con mồi của mình và ném nó vào thuyền. “Trước khi ông bắt con cá đó cho bà ấy, ông đã đến thăm hồ này trong nhiều năm. Ông đã nghiên cứu cách những con cá di chuyển cùng nhau. Khi cần đẻ trứng, chúng di cư thành đàn” — ông chỉ vào một ngọn núi ở phía chân trời — “về phía một con sông ở đằng kia. Mỗi mùa, sau khi nước hồ tan, ông lại chèo thuyền ra hồ du ngoạn. Bất cứ khi nào ông thả câu, ông nhắm nó về phía những ngọn núi và ông đợi một đàn đi ngang qua”.
“Đó là bí mật lớn đó hả ông?”
“Không phải ông bảo nó là ma thuật”.
“Nhưng con đã ngồi cạnh ông suốt thời gian qua. Tại sao con không bắt được gì?”
Ông tôi cười ngặt nghẽo đến nỗi bắt đầu ho. “Cậu bé”, ông nói, “con thực sự không nghe. Con không muốn ở đây và hồ nước đang phản ứng”.
“Điều đó nghe giống như ma thuật đối với con vậy”, tôi lẩm bẩm.
“Con tin rằng chỉ cần bắt được một con cá thì con sẽ làm được. Nhưng những gì con cần không tạo ra sự khác biệt. Con không bao giờ kiểm soát được những gì xảy ra tiếp theo. Tự nhiên sẽ quyết định liệu nó có cho phép con lấy nó hay không”.
Tối hôm đó, tôi đi bộ cùng Dorgom, mang theo đồ nghề và thịt cừu trở về làng. Trong suốt mùa đó, tôi đã nhiều lần trở lại hồ để hành nghề câu cá, nhưng ông tôi không bao giờ tham gia cùng tôi nữa. Cuối cùng tôi đã câu được ba con cá, một số lượng còn kém xa so với những gì mà những người lớn tuổi cho là xuất sắc, để tôi trải qua nghi lễ đặt tên. Đến mùa xuân năm sau, quân Ottoman quyết định không muốn người làng của tôi nữa. Khi tin đồn bắt đầu lan truyền rằng binh lính đang đốt làng, cha tôi đã hối lộ một người cưỡi lừa để giấu tôi dưới đống cỏ khô ở phía sau xe của ông. Tôi rõ ràng trốn thoát. Ngay cả bây giờ, tôi không thể trùm chăn lên đầu mà không sợ bị ngạt thở.
Tôi đến một cảng, nơi tôi gặp một thuyền trưởng thương hại tôi. Anh ấy đã cho tôi đi qua Biển Đen đến Sevastopol. Một nhà thờ ở đó được biết đến như một nơi để đoàn tụ những gia đình ly tán và tôi nuôi hy vọng rằng cha tôi hoặc anh trai của ông sẽ đến tham gia cùng tôi khi ngày tháng trôi qua. Tôi ngủ trong một con hẻm cùng với những người tị nạn khác. Hầu hết chúng là những đứa trẻ bằng nửa tuổi tôi. Tất cả những gì chúng làm là khóc. Một cậu bé sẽ bắt đầu, rồi một cậu bé khác và chẳng mấy chốc tiếng khóc của chúng vang vọng như một bầy sói con. Những người lớn xung quanh chúng tôi đã chạy trốn, nhưng chúng tôi không biết ở đâu. Chiến tranh ở khắp mọi nơi xung quanh chúng tôi. Ai đó sẽ nghe tin đồn rằng một thị trấn nào đó chưa bị phá hủy, hoặc một khu vực nào đó đủ xa tiền tuyến và sau đó chúng tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa. Một ngày nọ, một người lính vây bắt chúng tôi và nói với chúng tôi rằng anh ta sẽ đưa chúng tôi đến một nơi nào đó để chúng tôi có thể được chăm sóc. Tôi không tin tưởng Sa hoàng hơn người Ottoman, vì vậy tôi đã lẻn lên một con tàu chở hàng. Tôi ăn bất cứ thứ gì tôi có thể tìm thấy – chủ yếu là chuột – và tôi hút nước từ những chiếc thùng xung quanh mình. Khi tôi đến đất liền, tôi nồng nặc mùi nước tiểu và mồ hôi. Tôi lang thang trên đường phố của một vùng đất xa lạ, đáp lại ánh nhìn kinh hoàng trong mắt mọi người bằng tiếng thút thít của một đứa con lai bị thương. Một người qua đường làm dấu thánh giá và nói với tôi bằng ngôn ngữ mượt mà của ông ta. Sau nhiều lần bối rối, tôi hiểu rằng ông ấy muốn biết tôi là ai. Biết rằng mình đã trở thành một đứa trẻ mồ côi, tôi đặt tên cho mình là Vorputian.
Tôi đã ở lại Marseilles kể từ đó. Cuối cùng, tôi nhận ra rằng mình chỉ có thể tìm thấy sự bình yên sau khi loại bỏ được sự thất vọng trong mình, giống như một bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ khối u. Dù tôi có học cách nướng bánh mì hay trở thành một ngư dân lành nghề cũng không có gì khác biệt. Tương lai của tôi đã được quyết định trước khi nó bắt đầu.
Đỗ Nguyệt (dịch)
Garen Torikian là một nhà văn tiểu thuyết, nhà tiểu luận và dịch giả từ tiếng Tây Armenia sang tiếng Anh.