Từ xưa đến nay, tình yêu luôn song hành và tồn tại với con người. Đó là nguồn đề tài hấp dẫn, vô tận của nghệ thuật, văn chương. Nguyễn Khắc Bình cũng viết về đề tài đó thông qua lăng kính chủ quan của mình. Với tập thơ “Nơi tình yêu bắt đầu”, tác giả đã đề cập đến một trường tình khá rộng, những cung bậc tình cảm, sắc màu khác nhau. Điều đó đã được thể hiện trong bài thơ cùng tên của tập thơ: “Nơi tình yêu bắt đầu trong ta/ Là lời ru à ơi của mẹ/ Nơi tình yêu bắt đầu trong ta/ Những cuộc đời bước ra từ cổ tích/ Trang sách hồng bao điều mơ ước/ Bát vối thơm mùa gặt tháng năm/ Nơi tình yêu bắt đầu trong ta/ Lời giao duyên ngọt lịm khúc dân ca/ Nơi tình yêu bắt đầu trong ta/ Ngày mẹ tiễn con ra mặt trận…/ Yêu con người có trái tim nhân hậu/ Ta nhận ra một điều giản dị/ Tình yêu bắt đầu từ những nguyên sơ”.
Nghệ thuật lặp cú pháp nhấn mạnh “Nơi tình yêu bắt đầu” không phải xa lạ, trừu tượng mà rất gần gũi, giản dị, có thể cảm nhận và nắm bắt được trong cuộc sống đời thường. Tình yêu luôn âm ỉ trong tâm khảm của mỗi cá nhân, trong từng hoàn cảnh cụ thể, tình yêu ấy lại được thổi bùng cháy mãnh liệt, kể cả những người tưởng chừng như tình yêu đã nguội tắt, đã chết từ lâu.
Không phải ngẫu nhiên tác giả đặt tình đồng chí, đồng đội lên trên. Đất nước hòa bình, thống nhất chưa được bao lâu, chiến tranh biên giới xảy ra, người lính lại một lần nữa hy sinh máu xương để bảo vệ biên cương Tổ quốc. Những gì chúng ta có được hôm nay, chính là nhờ có các anh đã “Sống bám đá, chết hóa thân vào đá/ Dựng lời thề giữ đất biên cương”. Tiếng gọi đồng đội của các cựu chiến binh còn sống thiết tha, đẫm nước mắt, cảm động đến cả cây cỏ, núi rừng, trời đất: “Nước mắt mặn hòa mưa tháng bảy/ Gọi đồng đội mãi sao chẳng thấy/ Giữa non ngàn mắt lá rưng rưng/ Về đây đồng đội ơi/ Tiếng vọng đất trời” (Tiếng gọi đồng đội).
Chiến tranh đã lùi xa nhưng hậu quả đớn đau của nó để lại vẫn còn âm ỉ, nhức nhối trong tâm can người sống “Những ngọn núi phủ màn mây trắng/ Lặng thầm vấn dải khăn tang/ Những cái tên cuộc chiến bi hùng/ Cối xay thịt/ Lò vôi thế kỷ/ Thung lũng gọi hồn/ Ngã ba cửa tử/ Đạn xé vai trụ bám giữ biên thùy” (Tiếng gọi đồng đội).
Những câu thơ nức nở máu và nước mắt đã diễn tả sự tàn khốc, ác liệt của chiến tranh, khiến chúng ta phải nhớ đến cái giá của hòa bình, của độc lập, tự do, không được phép quên những người đã hy sinh tuổi trẻ, máu xương cho mảnh đất này. Những người con anh hùng được sinh ra từ những người mẹ anh hùng. Tình mẫu tử không phải của riêng ai. Đó là tình cảm thiêng liêng, cao quý của nhân loại “Thái dương sinh những bông hồng/ Mẹ hiền sinh những anh hùng thi nhân”.
Hình ảnh mẹ nhiều lần hiện lên trong tập thơ, vừa cụ thể, vừa khái quát. Mẹ của tác giả cũng như bao người mẹ khác tần tảo nắng mưa, giàu đức hy sinh: “Mùa xuân của mẹ dâng hiến cho đời/ Hạnh phúc phân thân sẻ chia hạt máu” (Mùa xuân của mẹ).
Khi trở về không còn mẹ, con day dứt, ân hận, thấy mình có lỗi với mẹ vô cùng: “Ngày trở về bỗng gặp mẹ tôi/ Trước di ảnh người tôi như có lỗi/ Để mẹ buồn khắc khoải lúc đi xa/ Như tình mẹ lắng trong lòng ta mãi/ Vẫn dâng đầy theo suốt cuộc đời” (Tình mẹ).
Một lần nữa ta lại bắt gặp hình dáng và lời ru của mẹ vang lên sống dậy trong ký ức tác giả “Ký ức vẹn nguyên hồn thơ trẻ/ Bóng hoàng hôn liêu xiêu dáng mẹ/ Vọng lời ru năm tháng tìm về” (Tìm về tuổi thơ).
Nhớ mẹ là nhớ tới lời ru ngọt ngào, thiết tha khiến tôi nhớ tới câu thơ: “Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn” của nhà thơ Nguyễn Duy. Mẹ nhiều lần trở đi trở lại trong tập thơ. Dù đi đâu, ở đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, tác giả cũng nhìn thấy bóng dáng của mẹ mình. Ngoài hình ảnh mẹ tần tảo, lam lũ, chịu thương chịu khó, còn có một hình ảnh mẹ tuyệt đẹp, vừa thực, vừa lãng mạn. Tác giả tự hào về mẹ, người làm nên cuộc sống ấm no, đồng thời là người họa sỹ nông dân vẽ bức tranh mùa màng sinh động, đa dạng, kỳ diệu bởi nó không chỉ có sắc màu thiên nhiên, mà nó còn có hình khối, đường nét, hương vị tỏa ra từ bức tranh. Tất cả hòa quyện vào nhau, thấm vào máu thịt của tác giả “Dảnh mạ mẹ cầm trên tay như ngọn bút/ Tô gam màu no ấm bình yên/ Cánh đồng làng bức họa không tên/ Chất mặn mồ hôi trong từng nét cọ/ Màu xanh mây ngàn, màu vàng của nắng/ Ngô lúa vồng thơm như bát cơm đầy” (Bức họa mùa màng).
Tình yêu mẹ hòa quyện với tình yêu quê hương, đất nước. Tác giả nghĩ về Tổ quốc Việt Nam bằng một tư duy mới trong thời đại hội nhập toàn cầu. Dạo chơi ở đất nước Hàn Quốc, tác giả suy ngẫm “Một đất nước vươn tầm cao mới/ Làm giàu từ nội lực sinh sôi/ Bên sông Hàn nỗi nhớ Tổ quốc tôi/ Câu hỏi bao ngày còn bỏ ngỏ/ Cháy tự ngàn đời ơi dòng sông đỏ/ Bao giờ…/ Bao giờ…/ Kỳ tích sông Hồng?” (Câu hỏi bên sông Hàn).
Câu hỏi ấy xoáy sâu vào tâm tưởng của độc giả, kỳ vọng vào một sự thay đổi lớn lao của dân tộc ta, đất nước ta vươn lên ngang tầm với những con rồng châu Á. Tình yêu Tổ quốc gắn liền với niềm kính yêu Lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng như bao người dân đất Việt, tác giả nhớ tới Bác Hồ là học và làm theo lời Bác, nguyện suốt đời xây dựng và bảo vệ đất nước tươi đẹp, phồn vinh “Suốt đời Bác trồng cây cho ta vin trái/ Trồng cây nào phải tốt xanh cây ấy/ Xuân về làm theo lời Bác dạy/ “Làm cửa nhà phải chuẩn bị từ nay” (Tết trồng cây).
“Đâu đây vang vọng tiếng Người/ “Các Vua Hùng đã có công dựng nước/ Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”/ Trước tổ tiên lòng ta thầm hứa/ Nước non này nguyện giữ vẹn tròn” (Chiều Đền Giếng).
Với tình yêu đôi lứa, tác giả chủ yếu viết theo dòng hoài niệm và ít viết về tình yêu cụ thể “Lặng thầm thương nhớ biết bao/ Mối tình đầu kỷ niệm mình trao” (Mùa hạ).
Tác giả cảm thông với người vợ liệt sỹ “Con ngõ nhỏ cạn ngày trông ngóng/ Vấp vào bóng mình thầm gọi tên anh” (Đợi chờ).
Cảm thông với người bán hàng rong “Lời rao sắt se từ gan ruột/ Trĩu hai đầu đòn gánh lo toan” (Tiếng rao).
(Xem tiếp trang 55)
Sẻ chia với cô gái trẻ xuất gia nơi cửa Phật: “Chốn tu hành có giải thoát chúng sinh” (Câu hỏi ngày xuân).
Thương các cô gái phải đi làm ở xứ người “Gặp các cô gái Việt trong nhà dưỡng lão xứ Đài/ Mơ đổi đời chấp nhận thiệt thua/ Nợ ngày đi đến khi nào trả nổi/ Các em ơi bao nỗi niềm trăn trở/ Cứ theo anh ngày ở xứ Đài” (Gặp ở xứ Đài).
“Thương người như thể thương thân” nên tác giả đã có những câu thơ chiết ra từ tâm can mình.
Phần nhiều các bài thơ được viết theo phương pháp tự sự, miêu tả, phô diễn tâm trạng và tìm về ký ức xưa. Bao trùm toàn bộ tập thơ là một màn sương bàng bạc nỗi buồn nhớ thương da diết, trĩu nặng ưu tư. Đó cũng chính là một cách thể hiện tình yêu riêng của tác giả. Viết theo bút pháp tự sự nên một số bài còn dàn trải, thiếu hàm súc, có câu lặp ý, lặp từ, nặng nghĩa tường minh, nhẹ nghĩa hàm ẩn. Tuy vậy, có bài thơ hay. Bất chợt tôi đọc bài “Cái lá”: “Nghe gì mà vểnh mà vênh/ So le gân guốc nhẹ tênh mỗi chiều/ Nhặt từng hạt nắng phiêu diêu/ Nuôi xanh cành để một chiều biệt ly”. Bài thơ mang tính triết lý thế sự sâu đậm. Cái lá trở thành một thân phận, một con người nhân hậu giàu đức hy sinh, chẳng nhận gì cho riêng mình, nhẹ nhàng, thanh thản hóa thân vào đất mẹ. Điều đó khiến cho người đọc phải suy ngẫm, chiêm nghiệm về tình đời, tình người.
Tập thơ “Nơi tình yêu bắt đầu” của tác giả Nguyễn Khắc Bình thấm đẫm tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, con người, giàu giá trị hiện thực, nhân văn, hướng con người tới giá trị chân – thiện – mỹ. Tập thơ đã góp thêm vào vườn hoa thi ca đất Tổ và nền thi ca đương đại nói chung một đóa hoa nhỏ hương sắc riêng.
Vũ Thị Thanh Minh