NHÂN VẬT:
– Đại tá Vũ Kiên: Chính ủy Cảnh sát biển Việt Nam, 60 tuổi (hồi 1)
– Trần Bạch Đằng Giang: Thuyền trưởng, 23 tuổi (hồi 1)
– Cô Tình: Thuyền trưởng ngư dân, 21 tuổi (hồi 4)
– Ông Nguyễn Văn Lộng: Thuyền trưởng ngư dân, 60 tuổi
– Thuyền trưởng ngư dân tầu đánh cá 1
– Thuyền trưởng ngư dân tầu đánh cá 2
– Người dẫn truyện
– Một số du kích và bộ đội giải phóng
– Một số ngư dân đánh cá.
Hồi I
CẢNH 1 (năm 2008)
Một căn phòng làm việc có bàn rộng và 2 chiếc ghế. Trên bàn để một tấm biển đề Đại tá Vũ Kiên, Chính ủy Cảnh sát biển Việt Nam. Phông phía sau là bản đồ Biển Đông.
Đại tá Chính ủy Vũ Kiên (băn khoăn hết đứng lên lại ngồi xuống, ông cầm lá đơn có chữ ký bằng máu xin vào Cảnh sát biển Việt Nam để trên mặt bàn làm việc lên rồi lại đặt xuống, giọng thảng thốt): Thêm một lá đơn có chữ ký bằng máu xin vào Cảnh sát biển Việt Nam. Trần Bạch Đằng Giang, cái tên này sao nghe quen quen. Lạ thật, kể từ khi nhận được lệnh tổ chức lại lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam mình đã nhận được bao nhiêu đơn xin gia nhập Cảnh sát biển mà sao không có lá đơn nào làm mình bồn chồn như lá đơn này. Hay là…
Chiến sỹ trực ban (mặc quân phục cảnh sát biển Việt Nam bước vào, giọng nghiêm trang báo cáo): Báo cáo, theo lời mời của Đại tá, anh Trần Bạch Đằng Giang đã đến, đang chờ gặp Đại tá.
Đại tá Vũ Kiên: Mời anh ấy vào
Trần Bạch Đằng Giang (chừng hai mươi hai tuổi, da bánh mật, cao và cân đối, mắt hơi xếch, ăn vận trang phục bộ đội bước vào): Báo cáo Đại tá, tôi Trần Bạch Đằng Giang đã có mặt.
Đại tá Vũ Kiên (hồ hởi bước tới, bắt tay Giang, giọng niềm nở): Mời đồng chí ngồi (ông rót nước mời Giang) Đồng chí quê ở đâu?
Giang: Thưa Đại tá, tôi quê ở Phú Thọ ạ!
Đại tá Vũ Kiên: Thế à! Phú Thọ là quê gốc đồng chí?
Giang: Không ạ! Các cụ nhà tôi ở vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ, nhưng lên miền núi theo cụ Nguyễn Quang Bích đánh Pháp, sau đó ở lại sinh cơ lập nghiệp. Tính đến nay đã hơn một trăm năm rồi ạ.
Đại tá Vũ Kiên: Sao quê ở đồng rừng mà đồng chí lại thi vào trường Đại học Hàng hải?
Giang: Tôi được thừa hưởng vóc dáng của ông nội nên có sức khỏe. Noi gương cụ là chiến sỹ hải quân, nên khi tốt nghiệp phổ thông Trung học tôi đã thi vào trường Đại học Hàng hải!
Đại tá Vũ Kiên: Đã tốt nghiệp Đại học Hàng hải, sao đồng chí không xin vào làm ở các cơ quan Nhà nước để được thanh nhàn mà lại xin vào Cảnh sát biển Việt Nam cho vất vả?
Giang: Tôi muốn được tiếp bước truyền thống gia đình từ ông nội tôi!
Đại tá Vũ Kiên: Ra thế! Vậy bố đồng chí tên là gì?
Giang: Thưa Đại tá, bố tôi là Trần Bạch Đằng Thi ạ.
Đại tá Vũ Kiên (vội nhao người tới, đôi bàn tay chắc khỏe bám chặt vào vai Giang và reo lên khẳng định): Còn ông nội đồng chí là Trần Bạch Đằng Phú. Đúng không?
Giang (ngỡ ngàng, chuyển giọng, thay đổi cách xưng hô): Vâng! Ông nội cháu là Trần Bạch Đằng Phú. Sao ông biết ông cháu ạ? Ông cháu là liệt sỹ chống Mỹ đã hy sinh ở Trường Sơn năm 1965 cơ mà?
Đại tá Vũ Kiên (nói như reo): Ông đã cùng chiến đấu với ông nội cháu (rồi ôm lấy Giang như ôm một người thân thiết): Ông cháu là một thuyền trưởng anh hùng của đoàn tầu không số anh hùng.
Giang: Vâng. Trong giấy báo tử của ông cháu cũng ghi là thuyền trưởng tầu không số trên đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Thế ông cũng ở đoàn tầu không số với ông cháu ạ.
Đại tá Vũ Kiên: Ừ! Ông đã là lính dưới quyền ông cháu trong một trận chiến khốc liệt.
Giang: Thế ạ. Trận chiến đó ở địa điểm nào ạ.
Đại tá Vũ Kiên (giọng như trầm xuống): Đó là một ngày đầu xuân năm 1965. Mùng 6 Tết, Quân Giải phóng tỉnh Phú Yên tấn công, đánh tan tác tiểu đoàn Cọp Đen của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Đèo Nhông. Cả đội quân thiện chiến vùng II chiến thuật ngụy quyền hoảng loạn phải đặt trong tình trạng báo động khẩn cấp. Suốt trong tuần lễ tiếp theo, máy bay tải thương Mỹ liên tục bay qua khu vực Vũng Rô để chở lính bị thương về Nha Trang.
Hồi đó Quân Giải phóng còn thiếu vũ khí chiến đấu lắm. Cho nên cùng với đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ, đường mòn Hồ Chí Minh trên biển đã được thiết lập để vận chuyển vũ khí từ hậu phương miền Bắc cung ứng cho chiến trường miền Nam. Vũng Rô là một cảng để tầu hàng không số của ta cập bến.
Giang: Ngay sát địch ạ!
Đại tá Vũ Kiên: Ừ. Đấy là một cảng nước sâu nằm ngay dưới chân đèo Cả. Rừng lấn ra sát biển, lại ở gần căn cứ địch khiến chúng hoàn toàn bất ngờ, không chú ý đến.
Giang (trầm trồ): Các ông dũng cảm thật
Đại tá Vũ Kiên: Chỉ trong vòng hơn hai tháng trước Tết Nguyên đán năm ấy 3 chuyến tầu không số đã cập bến trót lọt, cung cấp gần hai trăm tấn vũ khí đạn dược cho chiến trường Liên khu V. Chuyến tầu không số thứ tư do ông cháu, thuyền trưởng Trần Bạch Đằng Phú chỉ huy, từ cảng Hải Phòng đến Vũng Rô an toàn vào đêm 13 Tết. Và đây là cuộc chiến ác liệt ấy.
Đèn sân khấu mờ dần
CẢNH 2 (năm 1965)
Sân khấu sáng dần. Trên phông một con tầu sơn mầu đen và xanh nước biển loang lổ ẩn hiện dưới bóng cây rừng mọc xòa đến mép nước. Từng tốp bộ đội giải phóng, đầu đội mũ tai bèo, đang khênh vác súng ống và các hòm đạn từ tầu lên bờ. Tại một gốc cây, Phú mặc quần áo đen, vừa từ rừng bước ra, chiến sỹ Kiên chạy đến.
Kiên: Anh Phú, anh vừa đi gặp cấp trên về ạ!
Phú: Ừ, anh vừa tranh thủ đi gặp các anh Bộ Tư lệnh miền về để xin ý kiến về vận chuyển hàng đợt tới. Thế nào, tầu mình đã bốc xếp xong hàng chưa Kiên?
Kiên: Báo cáo anh, suốt đêm qua lực lượng Quân Giải phóng và thủy thủ tầu đã bốc dỡ cật lực. Hàng bốc đến đâu đều vận chuyển về nơi an toàn đến đấy, nhưng vì khối lượng hàng quá lớn nên còn một phần chưa chuyển hết được. Máy tầu lại bị hỏng từ đêm qua vẫn sửa chữa chưa xong nên không thể đưa tầu đi ẩn giấu được ạ.
Phú: Gay nhỉ? Trời sắp sáng rồi! Không đưa được tầu đi giấu dễ bị bọn trực thăng “cá lẹp” bay dọc đường số 1 phát hiện ra lắm. Em đề nghị mọi người chặt cây, cắt cành lá ngụy trang tầu ngay đi.
Kiên: Vâng. (nói to) Đề nghị anh em chặt cành lá, ngụy trang tầu. Khẩn trương lên nhé.
(Mọi người vác cành lá ngụy trang tầu. Lúc sau có tiếng máy bay trực thăng, trước còn nhỏ, sau to dần, rồi gầm rú trên đầu)
Phú: Có khả năng địch đã phát hiện ra tầu. Đồng chí Kiên, cho anh em rút hết lên bờ.
Kiên: Rõ.
(Có tiếng bom nổ và tiếng súng AR15)
Phú (hét to): Địch thả bom đấy.
Tiếng binh lính ngụy quân (láo xáo vọng lại): Tầu của cộng sản kìa. Tấn công đi!
Kiên: Anh Phú ơi, địch đang tràn đến. Chúng muốn chiếm tầu.
Phú: Chuẩn bị chiến đấu. Đồng chí Kiên tổ chức cho anh em phá vòng vây rút lên Trường Sơn. Còn địch cứ để chúng xuống tầu, tôi sẽ điểm hỏa khối thuốc nổ phá tầu và tiêu diệt địch, quyết không để tầu rơi vào tay chúng.
(Có tiếng địch reo hò trên tầu. Phú giơ hai đầu dây điện lên cao. Anh đau xót nhìn con tầu lần cuối rồi chập hai đầu dây điện lại. Một tiếng nổ long trời. Tiếng la hét của địch ầm lên rồi im bặt. Con tầu từ từ chìm xuống biển)
CẢNH 3 (năm 1965)
Trên phông là cảnh một rừng cây lúp xúp. Phú, Kiên và một số chiến sỹ giải phóng đang trên đường rút lên Trường Sơn. Tiếng súng AR15 của địch nổ như ngô rang đuổi theo. Tiếng pháo địch chặn đường rút của ta cũng ì ùng ở phía trước. Bộ đội giải phóng vừa rút vừa bắn chặn địch. Phú đang chạy bỗng lảo đảo.
Kiên: Anh Phú! Anh bị thương rồi. Máu chảy nhiều quá. Để chúng em băng bó cho anh đã.
Phú: Không kịp nữa. Địch truy kích đến sát lắm rồi. Bây giờ cần có người chặn địch để chúng ta rút lui an toàn. Các đồng chí hãy tập trung tất cả vũ khí lại đây để tôi cản địch, còn lại hãy nhanh chóng rút về cứ.
Kiên: Không được anh ơi. Anh sẽ hy sinh mất. Hãy để chúng em ở lại đánh địch, sống cùng sống, chết cùng chết với anh.
Phú (giọng dứt khoát): Không được! Đây là mệnh lệnh chiến đấu. Thời gian gấp rút lắm rồi, không chậm trễ được đâu. Tôi là người chỉ huy cao nhất ở đây. Các đồng chí phải rút quân khẩn trương, không địch tràn tới bây giờ.
(Tất cả xúm lại vây quanh Phú như không muốn để mình Phú ở lại)
Phú (nghiêm mặt nói gằn từng tiếng): Các đồng chí, hãy chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của tôi. Không chần chừ nữa.
(Mọi người ngậm ngùi chia tay Phú. Sau đó người ta chỉ còn nghe thấy tiếng AK, tiếng lựu đạn của anh rộ lên cùng tiếng súng của địch. Lát sau sân khấu im ắng)
Ánh đèn sân khấu mờ dần, rồi chuyển sáng
Đại tá Vũ Kiên (bùi ngùi): Ông cháu đã hy sinh trong trận chiến không cân sức đó. Ngày chiến thắng năm 1975. Nhân dân Vũng Rô đã đưa ông cháu về nghĩa trang liệt sỹ của tỉnh. Trên mộ chí không một dòng địa chỉ. Ông chỉ nhớ có lần ông cháu kể cho nghe về đứa con trai của mình là Trần Bạch Đằng Thi và đọc cho nghe câu thơ viết về quê hương: “Nắng chói sông Lô hò ô tiếng hát”. Sông Lô dài hàng trăm cây số, ông đã dò hỏi quê ông cháu mà chưa tìm ra.
Giang: Thế ạ. Sau chiến tranh bố cháu cũng đã đi nhiều nơi dò hỏi và tìm mộ của ông cháu mà không được.
Đại tá Vũ Kiên: Giờ gặp được cháu. Ông sẽ cùng cháu vào Vũng Rô đưa hài cốt ông cháu về nghĩa trang liệt sỹ quê nhà để ông cháu được gặp gia đình.
Giang: Vâng, đó cũng là mong mỏi của cả dòng họ nhà cháu. Nhưng trước khi đi, xin ông chấp nhận lá đơn xin vào Cảnh sát biển Việt Nam của cháu để gia đình cháu được đón hai niềm vui trọn vẹn.
Đại tá Vũ Kiên (trầm ngâm): Việc này cháu để ông cân nhắc thêm đã. Ông cháu đã hy sinh vì dân, vì nước rồi. Ông không muốn cháu tham gia vào đấy nữa.
Giang (miệng như mếu): Ông ơi, xin hãy giúp cháu. Bố con cháu đã phải thuyết phục mãi bà và mẹ cháu mới đồng ý cho cháu viết đơn. Mọi người trong nhà đều mong cháu tiếp bước ông cháu để làm vẻ vang cho dòng họ (chuyển giọng nũng nịu) Giờ ông không đồng ý là cháu cứ ăn vạ ở đây với ông đấy.
Đại tá Vũ Kiên (đổi giọng nghiêm trang): Đồng chí Trần Bạch Đằng Giang, đồng chí có biết công việc của Cảnh sát biển là luôn đối mặt với hiểm nguy, thậm chí thường xuyên đối mặt với cái chết không?
Giang (rắn rỏi): Thưa đồng chí Đại tá Chính ủy, tôi biết ạ.
Đại tá Vũ Kiên: Đồng chí đã tốt nghiệp loại ưu tú trường Đại học Hàng hải. Đồng chí có biết nếu làm việc ở các cơ quan dân sự sẽ có thu nhập cao và nhàn hạ, còn ở Cảnh sát biển là vất vả, gian nan không?
Giang: Thưa đồng chí Đại tá Chính ủy, tôi biết ạ.
Đại tá Vũ Kiên: Thế sao đồng chí còn nằng nặc xung phong vào đấy?
Giang (nũng nịu): Ông ơi, cháu muốn noi gương ông, noi gương ông cháu, xứng đáng với tổ tiên dòng họ, xứng đáng với lớp lớp cha ông đi trước ạ. Ông đồng ý cho cháu nhé, ông.
Đại tá Vũ Kiên (mềm giọng): Ông chịu thua cháu rồi! Thế nếu ông giao cho cháu làm thuyền trưởng tầu Cảnh sát biển cháu có hoàn thành nhiệm vụ được không?
Giang: Báo cáo Đại tá! Tôi đã thực tập là thuyền trưởng trên chiến hạm của bộ đội Hải quân Việt Nam và được cấp bằng sỹ quan dự bị hạng ưu tú đấy ạ.
Đại tá Vũ Kiên (vui vẻ): Tốt! Bộ chỉ huy Cảnh sát biển Việt Nam chấp nhận đồng chí. Đồng chí sẽ về tầu Cảnh sát biển Việt Nam số hiệu 9015 nhận nhiệm vụ Thuyền trưởng.
Giang (sung sướng): Rõ!
Đại tá cười mãn nguyện, tin tưởng ôm chặt Giang. Màn hạ nhanh.
Hồi II
CẢNH 4 (năm 2013)
Trên phông là cảnh biển rộng. Một con tầu sơn trắng, bên hông có in dòng chữ Cảnh sát biển Việt Nam, số hiệu 9015.
Một số chiến sỹ mặc quân phục cảnh sát biển đi lại trên boong tầu. Trần Bạch Đằng Giang đang nắm chắc vô lăng. Có tiếng chuông điện thoại. Giang cầm ống nghe.
Giang: Sở chỉ huy đó ạ. Vâng tôi nghe rõ. Vâng, Tầu Cảnh sát biển Việt Nam, số hiệu 9015 đây. Chúng tôi đang ở kinh độ X, vĩ độ Y trên vùng biển quần đảo Hoàng Sa. Chúng tôi đã cứu hộ thành công tầu ông Nguyễn Văn Lộng của ta đang đánh bắt cá trên ngư trường truyền thống tại Hoàng Sa bị tầu lạ cướp hết ngư cụ, lương thực và dầu máy. Vâng, vâng! Chúng tôi đang đưa tầu ông Lộng vào bờ.
Ông Lộng (nước da đỏ au, khuôn mặt quắc thước, hất hàm khinh khi về phía Bắc): Chúng cậy thuyền to, đông người, có súng ống, đã cướp cá, lại cướp hết dầu máy của ta. Định mượn biển giết người đây! Nếu biển động mà các chú không đến kịp thì ông chắc chết.
Giang: Vâng, cháu là Giang, thuộc đơn vị Cảnh sát biển Việt Nam.
Ông Lộng: À, cháu Giang. Chúng nó đúng là quân ác độc cháu ạ! Ngày xưa, bị địch vây hãm liên miên khi vượt biển trên những con tầu không số cung cấp vũ khí cho chiến trường miền Nam ông còn không sợ nữa là. Bây giờ mình đánh cá trên ngư trường của mình, có Cảnh sát biển mình bảo vệ (nhìn thấy Tình từ dưới khoang thuyền chui lên, ông đổi giọng vui vẻ) lại có cháu nội ông cùng đi thì ông sợ gì quân giặc cướp ấy các cháu nhỉ? (cười lớn)
Tình (ngượng ngùng): Ông này…
Ông Lộng (nói với Giang): Đây là Tình, cháu nội của ông, cháu Giang ạ!
Giang: Thế ạ. Chào cô Tình nhé! Ông ơi, thì ra ông cũng là chiến sỹ trên đoàn tầu không số ngày xưa. Ông nội cháu cũng là chiến sỹ ở đoàn tầu không số đấy ạ!
Ông Lộng (reo lên): Đúng là trái đất tròn. Ông nội cháu tên là gì vậy?
Giang: Ông cháu là Trần Bạch Đằng Phú ạ!
Ông Lộng: Ôi, ông Phú, Thuyền trưởng tầu không số số 4! Ông biết ông cháu mà. Cháu biết không, ông cháu là thuyền trưởng gan dạ lắm nhé. Ngày trước anh em ông cùng chuyển súng đạn vào vùng Đất Mũi, trong lúc cam go nhất vẫn đùa nhau, sau này có con, có cháu sẽ kết thông gia với nhau đấy. (Giang và Tình nhìn nhau cười ngượng ngùng). Giờ thì con cháu ta gặp nhau thật rồi. Mừng quá. Để ông xuống khoang xem còn chai rượu nào lấy lên ta uống với nhau mừng ngày hội ngộ nhé!
(Nói rồi ông Lộng xuống khoang tầu. Trên sân khấu chỉ còn Giang và Tình)
Giang (cười): Em nghe thấy ông nói gì chưa? Các cụ đã nguyện ước với nhau rồi đấy. Từ giờ thấy anh đừng lảng tránh nhé. Lảng tránh là anh về anh mách ông đấy.
Tình: Anh chỉ được cái vơ vào là giỏi.
Giang: Chuyện. Đã chưa có người yêu mà đơn vị lại toàn con trai, đi biển cả tháng mới gặp được người con gái vừa xinh, vừa có người hậu thuẫn, anh không vơ vào mới là lạ.
Tình (ngượng nghịu): Bọn em cũng chưa chồng, mà đi biển suốt năm, suốt tháng có gặp được ai là con trai đâu.
Giang (mạnh dạn nắm tay Tình): Em giỏi thật đấy. Con gái đi biển hàng tháng trời, bao nhiêu là gian khổ mà vẫn bám trụ kiên cường được?
Tình: Làm sao không trụ được? Con trai các anh đi biển được thì con gái tụi em cũng đi biển được chứ!
Giang (giọng thông cảm): Nhưng còn việc kéo lưới đánh cá, vất vả lắm. Các em lại chân yếu tay mềm…
Tình (nhanh nhẹn cướp lời): Đấy là ngư trường của tổ tiên mình, mình phải vừa ra đánh cá, vừa ra bảo vệ vùng biển của mình chứ! Cứ cho là con gái chúng em chân yếu tay mềm nhưng chẳng lẽ ý chí “con Lạc, cháu Hồng” lại không xứng đáng với tổ tiên sao?
Giang: Đúng vậy! Anh tin ở các em mà. Mỗi lần nhìn thấy bà con ta bẻ lái kéo những mẻ lưới đầy những con thu, con nục là một lần trong lòng các anh dâng trào tình yêu thương và kiêu hãnh về những người dân Việt kiên cường bám biển.
Tình: Vâng, bà con ngư dân bọn em cũng vậy, mỗi lần nhìn thấy các anh hiên ngang trên boong tầu là thêm một lần bà con vững tin hơn vào sức mạnh của Cảnh sát biển nước mình.
(Hai người nắm chặt tay nhau, đứng sát vào nhau âu yếm, trìu mến. Ánh đèn trên sân khấu mờ dần)
Giang dẫn truyện (giọng sôi nổi): Thời gian trôi qua, Tình đã nhận lời cầu hôn của tôi. Trước biển, chúng tôi lắng nghe tiếng sóng như tiếng trái tim biển phập phồng và nghĩ đến thế hệ ông cha chúng tôi trong hành trình gian lao của đoàn tầu không số năm nào đã vượt từ Bắc vào Nam đánh giặc. Từ nay vùng biển tôi làm nhiệm vụ đã mang thêm ý nghĩa là ngư trường mà gia đình người yêu tôi đang ngày đêm bám biển.
Đèn sân khấu mờ dần
CảNH 5 (năm 2014)
Đèn sân khấu sáng dần. Ở phía giáp phông có hai tầng. Tầng 1 là mặt biển nơi hoạt động của các tầu thuyền. Tầng 2 là boong tầu Cảnh sát biển Việt Nam nơi anh em Giang đang làm việc. Trên phông là vùng biển mênh mông, những con tàu treo Quốc kỳ Việt Nam tung bay trước gió. Tàu của ngư dân ta đang mê mải kéo lưới.
Tình (vui vẻ): Các bác, các chú ơi, năm nay được mùa cá nục, cá thu nhỉ? Tàu nhà cháu được hơn năm tấn cá rồi. Chắc kéo lưới hết đêm nay, sáng mai là thu lưới, dong buồm về đất liền thôi!
Thuyền trưởng tầu 1 (niềm nở): Tầu tôi cũng trúng đậm cá mùa này. Sáng sáng thấy từng đàn cá thu, cá ngừ, cá sọc dưa tung tăng bơi lội mà trong lòng thêm yêu Tổ quốc mình quá thôi!
Thuyền trưởng tầu 2 (trầm ngâm): Vâng, tầu tôi cũng chỉ 1, 2 hôm nữa là về. Nhưng tôi lo lắm, phía tàu lạ họ làm găng, hết dùng vòi rồng với áp lực nước cực mạnh xối thẳng vào các tầu ta, lại mở bạt, giơ nòng súng ra dọa nạt. Kiểu này không biết sau chuyến này còn ra đánh cá ở đây được không nữa?
Tình (dằn giọng): Không ra là không ra thế nào? Đây là vùng biển của tổ tiên mình cơ mà. Mình không ra đây thì hóa ra mình mất ngư trường cho họ à? Bao nhiêu xương cốt ông cha gửi gắm ở đây, sao mình bỏ không ra được?
Thuyền trưởng tầu 2: Nhưng mà tôi sợ…
Thuyền trưởng tầu 1: Cô Tình nói phải đấy. Đây là ngư trường của tổ tiên. Mình phải có trách nhiệm gìn giữ chứ.
Thuyền trưởng tầu 2: Nó cậy số đông, cứ áp đảo mình thì làm sao đây…
Tình (cương quyết): Vùng biển của mình là mình phải giữ. Có điều mình phải ứng biến khôn khéo. Bác Hồ dạy rồi “Dĩ nhất biến, ứng vạn biến”. Họ gây khó khăn ở phía Nam thì ta dềnh lên mạn Bắc. Họ dùng vòi rồng phun nước dọa ban ngày thì ta chuyển sang đánh bắt cá ban đêm. Với lời dạy của Bác chẳng có gì ngăn cản ta được cả.
Thuyền trưởng tầu 1 (hồ hởi): Đúng đấy. (nói với thuyền trưởng tầu 2) Không việc gì phải sợ chúng ông ạ. Họ chỉ mong mình sợ để cướp biển của mình thôi. Thế việc gì mình phải sợ. Mình có chính nghĩa mà.
(Chợt có tiếng máy tầu gầm rú, át cả tiếng sóng biển)
Tiếng ngư dân (kêu thất thanh): Cô Tình chú ý, tầu hải giám lạ đến đấy.
Tình: Các bác bình tĩnh. Nhớ rằng mình đang đánh cá tại ngư trường của tổ tiên mình đấy.
Tiếng ngư dân: Nó dùng vòi rồng phun nước mạnh lắm.
Tình (giọng kiên quyết): Không sợ các bác ơi, mình lái tầu khéo léo tránh ra xa là được.
Trên tầng 2 sân khấu
Boong tầu Cảnh sát biển Việt Nam, Giang và mấy chiến sỹ tay cầm ống nhòm hướng về đoàn tầu đánh cá của Tình
Tiếng một chiến sỹ: Báo cáo Thuyền trưởng, tầu hải giám lạ đang hùng hổ lao trực diện vào tầu cá của cô Tình.
Tiếng chiến sỹ khác: Chúng đâm như điên dại. Tầu gỗ của cô Tình bị đâm đã vỡ toác và đang chìm.
Giang (ra lệnh): Tất cả anh em. Bẻ lái gấp, cho tầu lao về phía đó để chặn địch, bảo vệ đồng bào.
(Các chiến sỹ trèo về phía sau, xuống tầng 1 sân khấu, nơi ngư dân đang vật vờ bám vào các mảnh ván tầu vỡ)
Tiếng ngư dân (lao xao): May quá, sống rồi. Tầu Cảnh sát biển của ta đã tới. Bọn cướp biển phải cút rồi.
Giang: Anh em ơi, kéo bà con lên tầu. (hốt hoảng) Còn cô Tình đâu?
Tiếng ngư dân: Ừ, cô Tình đâu nhỉ?
Tiếng ngư dân khác: Tôi nhớ rồi. Lúc tầu giặc lao tới, trong lúc hiểm nguy, cô Tình còn cố bẻ lái tránh cú đâm của nó, nhưng không được. Cô Tình bị thương vào đầu, máu chảy nhễ nhại. Tôi chỉ kịp nhìn thấy thế, rồi bị hất tung lên, chẳng biết gì nữa!
Giang (ra lệnh): Các đồng chí, lao xuống biển tìm kiếm cô Tình!
Mọi người lao xuống biển. Lúc sau Giang mới mò vớt được Tình. Anh bế Tình trên tay, khuôn mặt vô cùng đau xót. Các chiến sỹ và bà con ngư dân túm lại vây quanh anh.
Giang (nghẹn ngào): Tình ơi! Đau xót biết chừng nào.
Một ngư dân (nhìn vào mặt Tình): Tuyệt nhiên không có nét sợ hãi nào. Em vẫn bình thản, tự tin bất chấp sự điên loạn, vô nhân của kẻ ác.
Giang (đau đớn): Thế là em đã hy sinh để bảo vệ vùng biển của chúng ta. Hy sinh như ông nội của chúng mình để bảo về chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Thuyền trưởng tầu 1: Xin bà con cô bác hãy giành cho em Tình một phút mặc niệm để em yên lòng về với tổ tiên, về với thế giới những liệt sỹ hy sinh vì Đất nước, vì Dân tộc.
Mọi người cúi đầu mặc niệm em. Đèn sân khấu mờ dần rồi lại sáng rõ.
Thuyền trưởng tầu 1 (giọng đanh lại): Thưa bà con cô bác. Cô Tình đã hy sinh trên vùng biển ngư trường của chúng ta. Giờ đây chúng ta hãy nén đau thương tiếp tục công việc còn dang dở ở phía trước. Trên nóc những con tầu đánh cá của ta, lá cờ đỏ sao vàng vẫn hiên ngang phần phật tung bay như nhắc nhở mọi người chân lý vùng biển này là của Tổ quốc Việt Nam.
Thuyền trưởng tầu 2 (xúc động, ăn năn): Đúng thế. Bây giờ tôi mới thấm hiểu điều mà cô Tình thường nói: “Mỗi tấc đất, mỗi ô vuông nhỏ nhoi trên biển, hễ là chủ quyền của dân tộc Việt thì mọi con dân nước Việt phải ra sức giữ lấy”. Tôi sẽ sát cánh cùng bà con mình bám biển, gìn giữ vùng biên cương của Tổ quốc.
Giang: Thưa bà con. Trước đây, trên vùng biển này, thế hệ các bậc tiền bối của chúng ta đã không quản hy sinh xương máu, mở đường Hồ Chí Minh trên Biển Đông đưa vũ khí từ Bắc vào Nam chi viện cho chiến trường đánh Mỹ thực hiện lời Bác dạy “Không có gì quý hơn Độc lập Tự do”.
Thuyền trưởng tầu 1: Ngày nay, không có lý do gì mà thế hệ chúng ta không quyết tâm bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Đất nước ta trên biển đến giọt máu cuối cùng.
Thuyền trưởng tầu 2: Sau này, con cháu chúng ta cũng sẽ mãi mãi tiếp tục bảo vệ giang sơn tiên tổ bao đời gây dựng trong đó có vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa. Các thế hệ dân tộc Việt Nam mãi vững vàng trước trọng trách giữ gìn biên cương đó.
Giang (giọng hào sảng): Những con tầu của chúng ta tiếp tục vững vàng bẻ lái đè lên những con sóng, tiến về phía trước mặc bão tố can qua. Sự hy sinh của lớp lớp những anh hùng liệt sỹ dân tộc Việt Nam đã làm nên nhịp đập trái tim cho biển, tạo thành sức mạnh thôi thúc tình yêu của con dân nước Việt mãi mãi sinh tử cùng với biển.
Màn hạ trong tiếng hát với bài hát “Nơi đảo xa” của nhạc sỹ Thế Song
V.Q.K